Rèn năng lực giao tiếp cho học sinh qua kỹ năng Nói - Viết trong dạy học Tiếng Việt môn Ngữ Văn THPT

Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy học từ phổ thông đến đại học đang là vấn đề bức thiết của nhà trường và xã hội. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8, khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo” Vấn đề “đổi mới phương pháp dạy học luôn được đặt ra và được ý thức như một yêu cầu tự nhiên, bức thiết, một động lực cho sự phát triển của nhà trường phổ thông, một yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo con người” .

Trong quá trình dạy học bản thân tôi đã trăn trở nhiều về vấn đề dạy học tiếng Việt môn học/phân môn được dạy từ cấp Tiểu học đến Trung học phổ thông hiện nay, nó có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những lí thuyết cơ bản về ngôn ngữ học và tiếng Việt, giúp học sinh vận dụng tốt hơn những quy tắc trong dạy học. Hoạt động giao tiếp nói và viết, tiếp nhận và tạo lập văn bản. Vì vậy, thông qua việc dạy học phần tiếng Việt THPT, giáo viên sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển toàn diện các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nói, nghe). Trong bốn kĩ năng quan trọng đọc, viết, nói, nghe thì kĩ năng nói và kỹ năng viết đang ngày càng khẳng định vị trí của nó. Bởi trong thực tế cuộc sống, hai kỹ năng này đóng vai trò như một loại công cụ cần thiết với tất cả học sinh. Các em sử dụng chúng thành thạo sẽ có cơ hội thể hiện ý tưởng của bản thân trong các tình huống giao tiếp khác nhau. Việc rèn kỹ năng nói - viết cho học sinh THPT trong khi dạy học tiếng Việt rõ ràng là rất cần thiết.

Song trên thực tế giảng dạy, giáo viên THPT vẫn dạy tiếng Việt nặng về cấu trúc, lý thuyết, nhẹ thực hành, chưa chú trọng đúng mức tới vấn đề phát triển kĩ năng giao tiếp, chưa quan tâm đến việc hướng học sinh học tiếng Việt để giao tiếp và giao tiếp có hiệu quả. Nhiều giáo viên quan tâm đến việc dạy tiếng Việt theo định hướng giao tiếp nhưng gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy. Giáo viên THPT hầu như chỉ quan tâm đến dạy đọc - hiểu văn bản, chưa chú ý đến dạy tiếng Việt. Hệ lụy của cách dạy này là nhiều học sinh vẫn cảm thấy nặng nề khi học và thiếu hứng thú với những bài về tiếng Việt. Tình trạng dùng từ tuỳ tiện, viết câu sai, cách diễn đạt xa rời chuẩn mực tiếng Việt vẫn còn nhiều đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tư duy, đọc hiểu văn bản và viết văn nghị luận của các em. Đặc biệt, các em hầu như không thể vận dụng được những kiến thức đã học từ phân môn tiếng Việt để áp dụng vào những tình huống của đời sống thực tế.

pdf 69 trang Trang Lê 28/04/2025 110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Rèn năng lực giao tiếp cho học sinh qua kỹ năng Nói - Viết trong dạy học Tiếng Việt môn Ngữ Văn THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Rèn năng lực giao tiếp cho học sinh qua kỹ năng Nói - Viết trong dạy học Tiếng Việt môn Ngữ Văn THPT

Rèn năng lực giao tiếp cho học sinh qua kỹ năng Nói - Viết trong dạy học Tiếng Việt môn Ngữ Văn THPT
lại những hiệu quả thiết thực cho việc 
đổi mới phương pháp dạy học phần tiếng Việt (Ngữ văn THPT) nhằm nâng cao 
khả năng giao tiếp cho học sinh. 
Các em đã nhận thức được vai trò của kiến thức Tiếng việt với việc hình 
thành các kĩ năng giao tiếp, từ đó, nâng cao ý thức học tập và thực hành nhiều hơn 
để rèn luyện và phát huy khả năng nói, viết của mình. Đồng thời biết cách vận 
dụng kiến thức tổng hợp từ phần tiếng Việt vào các tình huống giao tiếp cụ thể, 
tránh “lãng phí kiến thức” đã học 
Với riêng bản thân tôi, quá trình thực hiện đề tài, tôi đã thu nhận cho mình 
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Tôi nhận thấy, việc dạy - học các môn học nói 
chung, môn Ngữ văn và phần tiếng Việt nói riêng, cơ bản đều phải lấy việc hình 
thành kĩ năng, năng lực giao tiếp, rèn luyện kĩ năng nói - viết làm mục tiêu. Riêng 
đối với hợp phần tiếng Việt, hình thành được thói quen sử dụng ngôn ngữ, nâng 
 54 
cao khả năng giao tiếp cho các em để phục vụ cho cuộc sống thực tế quan trọng và 
cần thiết hơn là cung cấp kiến thức cho học sinh một cách bị động, chủ yếu là toàn 
lí thuyết. Qua đó, tôi càng nhận thấy vai trò quan trọng của dạy học Tiếng việt 
trong việc hình thành kĩ năng nói và viết trong giao tiếp cho học sinh. 
2. Kiến nghị 
2.1.Với giáo viên 
Nâng cao chất lượng cho giờ dạy học tiếng Việt, từ đó rèn luyện cho học 
sinh kĩ năng nói - viết là trách nhiệm chính của giáo viên Ngữ văn. Học sinh chỉ 
được học tiếng Việt 45 hay 90 phút trong tuần, phần lớn các em để ý, học hỏi cách 
giao tiếp, trình bày của chính giáo viên dạy bộ môn. Vì vậy, thầy cô giáo cần quan 
tâm đến nói, viết đúng chuẩn để tạo môi trường tiếng Việt lành mạnh cho các em 
học tập, noi gương 
Để dạy học tiếng Việt nhằm nâng cao khả năng giao tiếp, rèn luyện kĩ năng 
nói - viết thành công giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo. Giáo viên cần chuẩn bị 
kế hoạch bài dạy dạy, thiết kế bài dạy với những phương pháp, hình thức tổ chức 
dạy học phù hợp với cả nội dung bài học và đặc điểm đối tượng học sinh. Quan 
trọng hơn hết là giáo viên phải xây dựng được các tình huống giao tiếp để học sinh 
thực hành giao tiếp. Tình huống này có thể xuất hiện trong các ví dụ, các bài tập 
được bổ sung thêm, có cân nhắc đến sự phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nơi sống, 
mối quan tâm của người học. Tình huống giao tiếp cũng có thể được phát triển 
thêm từ các ví dụ, bài tập trong SGK. Các phương pháp, hình thức dạy học được 
lựa chọn phải đáp ứng tiêu chí rèn luyện kĩ năng giao tiếp nghe nói đọc viết cho 
học sinh. 
Ngoài ra, giáo viên phải soạn một số yêu cầu cần thiết cho học sinh làm việc 
trước ở nhà. Cần lưu ý rằng những yêu cầu về nhà này không nên chỉ đơn giản là 
những câu hỏi lí thuyết mà học sinh chỉ cần đọc SGK là trả lời được. Yêu cầu về 
nhà có thể chỉ là tìm hiểu một vấn đề nhỏ của bài học nhưng phải có tác dụng khơi 
gợi ở học sinh khả năng tìm tòi, tự nghiên cứu, sưu tầm hoặc đòi hỏi ở học sinh 
tinh thần làm việc tập thể. 
Giáo viên cần đổi mới cách dạy, cách kiểm tra - đánh giá theo hướng phát 
triển năng lực phù hợp với tâm lí trình độ người học, tránh gây nhàm chán trong 
tiết học, phát huy khả năng sáng tạo, kích thích niềm đam mê cho học sinh. Giáo 
viên cũng nên định hướng học sinh trong việc sử dụng tài liệu tham khảo, quan 
tâm đến những điểm yếu để bù lấp kiến thức cho học sinh, chỉ ra những cái hay cái 
đẹp và những lợi ích thiết yếu trong tiếng Việt để tạo cho các em niềm hứng thú 
với môn học này. 
2.2.Với học sinh 
Cần nâng cao nhận thức cá nhân về vị trí, vai trò của phân môn tiếng Việt 
trong việc hình thành năng lực giao tiếp, rèn kĩ năng nói, kĩ năng viết cho bản thân. 
 55 
Từ đó, thay đổi tư duy, cách học để không coi tiếng Việt là phân môn bắt buộc để 
học đối phó. 
Chủ động học tập, rèn luyện năng lực giao tiếp của bản thân. Trong quá 
trình học tập phải mạnh dạn giải quyết bài tập, tập vận dụng kiến thức lí thuyết 
được học vào nói, viết hàng ngày. 
Tích cực tham gia các cuộc thi do lớp trường phát động như thi làm báo 
tường, tập làm Mc để mài sắc năng lực ngôn ngữ cá nhân. 
2.3.Với các cấp quản lý 
- Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh 
giá theo hướng giao tiếp. Đánh giá cao của người quản lí đối với những giáo viên 
có đầu tư cao cho chuyên môn, mạnh dạn đổi mới cách dạy học theo hướng phát 
triển năng lực, bám vào kĩ năng giao tiếp sẽ giúp giáo viên nhiệt tình hơn với nghề. 
Khi dự giờ, người quản lí không nên cứng nhắc đánh giá giáo viên theo khuôn 
mẫu: trình tự các bước lên lớp, dạy đủ nội dung, đúng giờ, lớp học không ồn mà 
không nhìn thấy hoặc phủ nhận những đổi mới, dụng công của người đứng lớp thì 
sẽ dần dần thiêu rụi nhiệt tâm, nỗ lực đổi mới ở người thầy và khiến họ khó lòng 
thay đổi được mục tiêu, phương pháp dạy học. 
- Cơ sở vật chất đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi ban đầu cho giáo viên thực 
hiện các kế hoạch dạy học, học sinh có môi trường học tập tốt. 
- Khả năng phát triển mở rộng của đề tài : 
Với đề tài này nên mở rộng kĩ năng giao tiếp cho học sinh qua 2 kĩ năng nói 
viết ở phần chương trình lớp 10, 12; Kĩ năng nói viết thông qua dạy đọc hiểu văn 
bản, thông qua các hình thức sân khấu hóa nội dung dạy học trong nhà trường 
THPT 
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi, mong được cùng đồng nghiệp 
chia sẻ, góp ý. Thiết nghĩ, việc đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu xã hội, hoàn 
thiện về kĩ năng giao tiếp, nghe nói đọc viết không phải là công việc của riêng ai. 
Tôi xin trân trọng cảm ơn những đóng góp của quý vị! 
 56 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ văn 10, 11, 12. NXB Giáo dục, H, 2006. 
2. Lê A, Bùi Minh Toán, Nguyễn Quang Ninh, Giáo trình Phương pháp dạy học 
tiếng Việt, NXB Giáo dục, H, 1995 Nguyễn Trí - Lê A - Lê Phương Nga, Giáo 
trình Phương pháp dạy học tiếng Việt, tập hai NXB Giáo dục, H, 2000. 
3. Nguyễn Viết Chữ, Về việc bồi dường kĩ năng đọc, nói, nghe, viết cho học sinh 
trong dạy học Ngữ Văn, Tạp chí Giáo dục, số 172, 2007. 
4. Nguyễn Trí, Một số vấn đề dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở tiểu 
học, Nxb Giáo dục , 2009 
5. Luật giáo dục Việt Nam (2005). 
 PL 1 
PHỤ LỤC 
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN GV NGỮ VĂN THPT 
Để phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy phần tiếng Việt ở bậc THPT trong SGK 
Ngữ văn, chúng tôi mong nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô qua phiếu tham khảo 
ý kiến, mong thầy cô trả lời dựa trên thực tế giảng dạy ở trường THPT 
Câu 1: Sau một thời gian dài thực hiện chương trình và SGK Ngữ văn 
THPT hiện hành, theo thầy/cô, phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 
THPT hiện nay như thế nào 
A. Phù hợp về dung lượng kiến thức và đảm bảo tính hệ thống, đảm bảo 
yêu cầu tích hợp đối với môn học 
B. Chưa phù hợp về dung lượng kiến thức và chưa đảm bảo tính hệ thống, 
chưa đảm bảo yêu cầu tích hợp đối với môn học 
Câu 2: Trong bộ môn Ngữ văn, thầy cô thấy bản thân dạy phần nào là 
khó khăn nhất? Nêu rõ lí do 
A. Đọc hiểu văn bản         
B.Tiếng Việt           
C. Làm văn           
Câu 3: Trong quá trình giảng dạy phần tiếng Việt cho HS, GV thấy HS 
yếu những kĩ năng nào nhất? Nêu một vài biểu hiện cụ thể 
A. Kĩ năng nghe       . 
B.Kỹ năng nói        . 
C.Kỹ năng đọc         
D. Kỹ năng viết         
Câu 2: Trong bộ môn Ngữ văn, thầy cô thấy bản thân dạy phần nào là 
khó khăn nhất? Nêu rõ lí do 
A. Đọc hiểu văn bản         
B.Tiếng Việt           
C. Làm văn           
Câu 3: Trong quá trình giảng dạy phần tiếng Việt cho HS, GV thấy HS 
yếu những kĩ năng nào nhất? Nêu một vài biểu hiện cụ thể 
A. Kĩ năng nghe       . 
 PL 2 
B. Kỹ năng nói        . 
C. Kỹ năng đọc         
D. Kỹ năng viết         
 PL 3 
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN HỌC SINH THPT 
Để phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy phần tiếng Việt ở bậc THPT trong 
SGK Ngữ văn, chúng tôi mong nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô qua phiếu 
tham khảo ý kiến, mong các em trả lời dựa trên thực tế học tập ở trường THPT 
Câu 1: Khi học tiếng Việt, em cảm thấy nội dung kiến thức bài học như 
thế nào? 
A. Vừa phải, không khó cũng không dễ 
B. Nhiều, khó hiểu 
C. Chưa gắn với thực tiễn, học chỉ mang tính chất “cho biết”, cho có mà 
không áp dụng được vào đời sống 
Câu 2: Cách dạy của GV khi dạy học hợp phần tiếng Việt trong SGK 
Ngữ văn như thế nào 
A. Giáo viên dạy kĩ, thêm ví dụ 
B. GV bỏ qua phần tiếng Việt 
C. GV dạy qua loa, khó hiểu. 
Câu 3: Dù đã học và nắm được các yêu cầu sử dụng ngôn ngữ tiếng Viêt 
trong giao tiếp hằng này nhưng các em vẫn yếu kĩ năng nào nhất 
A. Nghe - đọc 
B. Nói - viết 
C. Nghe - viết 
C. Đọc - nói. 
Câu 4: Em hãy thử đề xuất một số ý kiến để môn tiếng Việt trở nên hấp 
dẫn hơn 
 PL 4 
KẾT QUẢ THU NHẬN TỪ PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN CỦA GV 
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG VIỆC DẠY - HỌC TIẾNG VIỆT 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 1: 
Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ Hợp 
(8 giáo viên) 
THPT 
Quỳ Hợp 2 
(4 GV) 
THPT 
Quỳ Hợp 3 
(5 GV) 
Tổng 
hợp kết 
quả 
Sau thời 
gian dài 
năm thực 
hiện 
chương 
trình và 
SGK Ngữ 
văn THPT 
hiện hành, 
theo 
thầy/cô, 
phần tiếng 
Việt trong 
chương 
trình Ngữ 
văn THPT 
hiện nay 
như thế nào 
Phù hợp về 
dung lượng 
kiến thức 
và đảm bảo 
tính hệ 
thống, đảm 
bảo yêu cầu 
tích hợp 
đối với 
môn học 
4 2 2 8 
Chưa phù 
hợp về 
dung lượng 
kiến thức 
và chưa 
đảm bảo 
tính hệ 
thống, chưa 
đảm bảo 
yêu cầu 
tích hợp 
đối với 
môn học 
6 2 3 11 
 PL 5 
Kết quả khảo sát Câu 2: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ Hợp 
(8 GV) 
THPT Quỳ 
Hợp 2 
(4 GV) 
THPT Quỳ 
Hợp 3 
(5 GV) 
Tổng 
hợp kết 
quả 
Trong bộ 
môn Ngữ 
văn, thầy cô 
thấy bản 
thân dạy 
phần nào là 
khó khăn 
nhất? 
Đọc hiểu 
văn bản 
1 0 1 3 
tiếng Việt 
4 3 3 11 
Làm văn 3 1 1 5 
Nêu rõ lí do tiếng Việt 
khó dạy 
nhất vì 
nhiều kiến 
thức, chưa 
có phương 
án dạy học 
hữu hiệu, 
HS không 
chú ý 
tiếng Việt 
khó dạy 
nhất vì các 
kiểu bài rất 
đa dạng, 
không thể 
quy về 
những kiểu 
dạng cụ thể 
HS chỉ 
thích đọc 
hiểu văn 
bản, coi 
nhẹ phần 
tiếng việt 
vì không 
có tính 
thực tiễn 
 PL 6 
Kết quả khảo sát câu Câu 3: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ Hợp 
(8 GV) 
THPT Quỳ 
Hợp 2 
(4 GV) 
THPT Quỳ 
Hợp 3 
(5 GV) 
Tổng 
hợp kết 
quả 
Trong quá 
trình giảng 
dạy phần 
tiếng Việt 
cho HS, 
GV thấy 
HS yếu 
những kĩ 
năng nào 
nhất? Nêu 
một vài 
biểu hiện cụ 
thể 
Kỹ năng 
nghe 
0 0 0 0 
Kỹ năng nói 
3 (lúng 
túng khi 
diễn đạt, 
nói như 
viết, không 
biết trình 
bày ý 
tưởng 
bằng ngôn 
ngữ ) 
2 (phát âm 
chưa chuẩn, 
nói ngọng) 
3 (diễn đạt 
không mạch 
lạc, rối rắm, 
các ý sắp 
xếp thiếu 
logic) 
9 
Kỹ năng 
đọc 
2 (Đọc 
chậm, 
không biết 
ngắt nghỉ 
đúng chỗ, 
không diễn 
cảm ) 
0 1 (đọc sai 
lỗi chính tả, 
không chú ý 
đến ngữ 
cảnh ) 
3 
Kỹ năng 
viết 
3 (hình 
thức trình 
bày sơ sài, 
lập luận 
không chặt 
chẽ, thiếu 
liên kết) 
2 (câu cú 
dài dòng, cả 
văn bản 
không có 
dấu chấm 
phẩy) 
1 (lỗi chính 
tả nhiều, 
viết sai 
phong cách 
văn bản) 
7 
 PL 7 
Kết quả khảo sát Câu 4 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT Quỳ Hợp 
(8 GV) 
THPT Quỳ Hợp 2 
(4 GV) 
THPT Quỳ Hợp 
3 
(5 GV) 
Nêu các 
biện 
pháp 
theo 
thầy cô 
có thể 
nâng cao 
hiệu quả 
việc học 
tiếng 
Việt 
Ý kiến 
của cac 
GV 
- “Ở mỗi phần 
giảng trong SGK 
nên có một ngữ 
liệu, VD dẫn 
chứng, phân tích 
để HS dễ hình 
dung, đưa những 
bài học tiếng 
Việt có tính thiết 
thực vào SGK.” 
- “Người dạy 
tiếng Việt cần có 
phương pháp tốt: 
dạy ngắn gọn, dễ 
hiểu, ứng dụng 
nhiều bài tập 
thực tế, hình ảnh 
sinh động.” 
- “Các bài cần 
dạy hướng vào 
dạy thực hành, 
giao tiếp trong 
- “Thêm bài tập, 
thêm VD.” 
- “Nên cho nhiều 
VD từ thực tế vào 
SGK để minh họa 
nội dung bài học. ” 
- “Các bài tập sau 
mỗi bài học tiếng 
Việt nên lấy từ 
thực tế.” 
- Chú ý đến tâm 
sinh lí của HS 
chọn nhiều bài 
tập có tình 
huống, tăng 
nhiều giờ thực 
hành.” 
- “Sưu tầm nhiều 
câu chuyện hay, 
vui của tiếng 
Việt đưa vào 
SGK để kích 
thích tư duy HS, 
đồng thời giúp 
HS thư giãn.” 
 PL 8 
KẾT QUẢ THU NHẬN TỪ PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN CỦA HS 
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG VIỆC DẠY - HỌC TIẾNG VIỆT 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 1: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ 
Hợp 
(60 HS) 
THPT 
Quỳ Hợp 
2 
(40 HS) 
THPT Quỳ 
Hợp 3 
(50 HS) 
Tổng 
hợp kết 
quả 
Khi học 
tiếng Việt, 
em cảm 
thấy nội 
dung kiến 
thức bài 
học như thế 
nào? 
Vừa phải, không 
khó cũng không 
dễ 
10 5 15 30 
Nhiều, khó hiểu 
25 15 20 60 
Chưa gắn với thực 
tiễn, học chỉ mang 
tính chất “cho 
biết”, cho có mà 
không áp dụng 
được vào đời sống 
25 20 15 60 
 PL 9 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 2 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ Hợp 
(60 HS) 
THPT 
Quỳ Hợp 
2 
(40 HS) 
THPT Quỳ 
Hợp 3 
(50 HS) 
Tổng hợp 
kết quả 
Cách dạy 
của GV khi 
dạy học hợp 
phần tiếng 
Việt trong 
SGK Ngữ 
văn như thế 
nào 
Giáo viên 
dạy kĩ, 
thêm ví dụ 
15 15 20 50 
GV dạy qua 
loa, chỉ chủ 
yếu dạy đọc 
hiểu văn 
bản 
45 25 30 100 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 3 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ Hợp 
(60 HS) 
THPT 
Quỳ Hợp 
2 
(40 HS) 
THPT Quỳ 
Hợp 3 
(50 HS) 
Tổng hợp 
kết quả 
Dù đã học 
và nắm được 
các yêu cầu 
sử dụng 
ngôn ngữ 
tiếng Viêt 
trong giao 
tiếp hằng 
này nhưng 
các em vẫn 
yếu kĩ năng 
nào nhất 
Nghe - đọc 10 5 10 25 
Nói - viết 
30 20 20 70 
Nghe - viết 
10 5 10 25 
Đọc - nói 
10 10 10 30 
 PL 10 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 4 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Quỳ Hợp 
(60 HS) 
THPT Quỳ 
Hợp 2 
(40 HS) 
THPT Quỳ 
Hợp 3 
(50 HS) 
Em hãy thử 
đề xuất một 
số ý kiến để 
môn tiếng 
Việt trở nên 
hấp dẫn hơn 
Ý kiến 
của cac 
HS 
- “Nội dung bài 
học tiếng Việt nên 
bám sát thực tế 
cuộc sống hiện 
nay. Phải có 
những bài tập thực 
tế để HS thực 
hành nói với 
nhau” 
- “GV cần dạy kĩ 
chỗ khó hiểu, cho 
thêm bài tập, VD 
bám sát bài học và 
thực tế.” 
- “tiếng Việt nên 
học ở phòng có 
máy chiếu để xem 
các đoạn video 
clip có tình huống 
giống nội dung bài 
học, qua lời thoại 
của các nhân vật 
chúng em dễ hiểu 
nghĩa của câu nói, 
nhớ lâu nội dung 
bài học, tâm lí học 
cũng thoải mái.” 
- “GV đứng lớp 
cần tạo sự thoải 
mái cho HS, 
cho thêm nhiều 
VD vui vui để 
gây hứng thú 
cho HS, tránh 
tình trạng gây 
mê HS.” 
- “Nên có 
nhiều hình ảnh 
minh họa trong 
SGK để bài 
học trở nên hấp 
dẫn hơn.” 
- “Trong khi 
học nên tổ 
chức thêm 
vài trò chơi.” 
- “Cho nhiều 
VD thực tế có 
liên quan đến 
nội dung bài 
học và gần gũi 
với HS.” 
- “Nên để cho 
HS thảo luận 
nhóm. Cho HS 
tập nói để 
mạnh dạn, tự 
tin.” 
- “GV nên tìm 
thêm nhiều VD 
hấp dẫn liên 
quan đến bài 
học. Như thế 
sẽ giúp chúng 
em khắc sâu 
thêm kiến 
thức.” 
- “GV nên tìm 
cách để HS 
nhận ra những 
gì mình cần 
học và sử dụng 
nhiều phương 
tiện dạy học để 
dễ dàng truyền 
đạt. ” 
(Các HS khác 
không có ý 
kiến) 

File đính kèm:

  • pdfren_nang_luc_giao_tiep_cho_hoc_sinh_qua_ky_nang_noi_viet_tro.pdf