Sáng kiến kinh nghiệm Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh Lớp 7

Như chúng ta đã biết văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, vì thế trong việc giáo dục con người, nó được sử dụng như một công cụ đắc lực, không ai có thể phủ nhận trong việc xây dựng, giữ gìn và bồi đắp tâm hồn, đạo đức cho con người. Trong chương trình Ngữ Văn cấp THCS , mỗi phân môn có một vị trí, chức năng riêng trong việc cung cấp kiến thức, hình thành các kĩ năng cho các em. Có thể thấy phân môn Tập làm văn là một bộ phận hết sức quan trọng vì nó rèn cho học sinh kỹ năng viết, xây dựng, lập luận,cụ thể là ở thực hành: Xây dựng bài qua thực hành, thực hành nhận biết và thực hành qua văn bản. Do đó điểm mới và khó trong chương trình Ngữ văn là phương pháp dạy thực hành. Cụ thể và quan trọng nhất là rèn luyện kỹ năng viết một đoạn văn đủ, hay và có sức thuyết phục. Đối với chương trình ngữ văn 7, văn nghị luận là một thể văn mới hơn khó hơn so với chương trình cũ và với trình độ tiếp thu, khả năng nhận biết và diễn đạt của các em nằm ở lứa tuổi 13, 14 do đó còn nhiều hạn chế. Nếu những em có khả năng tư duy trừu tượng tốt, biết trình bày một quan điểm, thái độ đúng trước một vấn đề, có chủ kiến rõ ràng thì sẽ không thấy khó. Còn những em quen tư duy cụ thể, cảm tính, ít năng lực suy luận, ít có bản lĩnh, ít có chủ kiến đối với mọi việc thì sẽ cảm thấy khó.

Thực trạng học sinh hiện nay, cho thấy kỹ năng viết còn hạn chế nhất là việc trình bày lại những suy nghĩ của mình trước một vấn đề nào đó. Để giúp các em tiếp thu đỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em có sự hứng thú trong học tập, gặt hái được những kết quả nhất định để bước sang học chương trình ngữ văn lớp 8, 9 có thể tránh bớt phần bỡ ngỡ và có điều kiện nâng cao kiến thức trong quá trình học tập, nên tôi mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm nhỏ của mình trong việc dạy kiểu bài nghị luận chứng minh với sáng kiến: "Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7”. Với việc áp dụng phương pháp này tôi đã đạt được kết quả khả quan hơn so với những năm dạy lớp 7 trước đây.

doc 21 trang Trang Lê 23/07/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh Lớp 7

Sáng kiến kinh nghiệm Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh Lớp 7
nh này dẫn chứng không có sức thuyết phục như dẫn chứng (1).
e. Bài tập sắp xếp dẫn chứng.
Việc sắp xếp dẫn chứng rất quan trọng trong văn chứng minh. Đưa dẫn chứng nào trước, để dẫn chứng nào sau là một kỹ năng để bài viết mạch lạc, khoa học và nhiều khi còn thể hiện sắc thái tình cảm.
Bài tập : So sánh hai đoạn văn
1. Tiếng hát ngợi ca tình cảm vợ chồng trong ca dao cũng ngọt ngào, tha thiết biết bao. Cuộc sống cơ cực, bần hàn đến nỗi họ phải dùng những thứ mà người khác bỏ đi, thế mà bằng cử chỉ âu yếm, chăm sóc cho nhau, những thứ đó trong bữa cơm đạm bạc của họ trở nên tuyệt ngon với niềm vui hạnh phúc:
 “Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.”
	Đó là sự thuỷ chung, son sắt, chia sẻ vất vả trong lao động cực nhọc, kiếm sống gian nan, nhưng họ vẫn hát lên tiếng ca đầy ân nghĩa:
 “Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
 Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.”
2. Tiếng hát ngợi ca tình cảm vợ chồng trong ca dao cũng tha thiết ngọt ngào biết bao. Đó là sự thuỷ chung chia sẻ vất vả trong lao động cực nhọc kiếm sống gian nan nhưng họ vẫn hát lên tiếng ca ân nghĩa:
 “Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.”
Cuộc sống cơ cực, bần hàn đến nỗi họ phải dùng những thứ mà người ta bỏ đi, bằng cử chỉ âu yếm, chăm sóc cho nhau, những thứ đó trong bữa cơm trở nên tuyệt ngon với niềm vui hạnh phúc:
 Râu tôm nấu với ruột bầu
 Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Hướng dẫn:
Đoạn 1: Dẫn chứng sắp xếp như vậy sẽ có cảm giác trình bày lộn xộn, làm nhạt đi cảm xúc của người viết.
Đoạn 2: Dẫn chứng được sắp xếp theo thứ tự tăng dần (tình cảm vợ chồng thuỷ chung, ấm áp trong lao động cực nhọc - nghèo túng - bần hàn cơ cực). Đoạn văn sẽ hay và sâu sắc hơn.
g. Bài tập luyện diễn đạt, trình bày.
	Như trên đã trình bày, đoạn văn chứng minh thường có 2 phần: Lời lập luận thuyết minh và dẫn chứng. Dẫn chứng đương nhiên là rất quan trọng, song lời phân tích, thuyết minh cũng quan trọng không kém. Giáo viên cần làm cho học sinh thấy, nếu không có lời phân tích, thuyết minh thì người đọc sẽ không hiểu tại sao lại dùng dẫn chứng này cho lý lẽ ấy hoặc vấn đề chứng minh khó có khả năng thuyết phục sâu sắc tới người đọc. Tôi cho học sinh tham khảo 2 đoạn văn sau:
 Đoạn 1: Đối với Hồ Chí Minh, cái đẹp là cuộc sống thực tại trên mặt đất này, cuộc sống luôn vận động, biến đổi và đầy say mê của con người trong cõi đời trần tục này:
 "Trong tù khoan khoái giấc ban trưa
Một giấc miên man suốt mấy giờ
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.”
	Không thể hiểu đúng tinh thần bài thơ này nếu không nhận ra nụ cười mỉa mai kín đáo và giấc mơ “cưỡi rồng” của người thi sĩ. Tất nhiên, Hồ Chí Minh khát khao tự do hơn ai hết, nhưng không hề muốn cưỡi rồng bay lên trời. Nếu quả thực phải bay lên trời thì chắc thà Người ở trong ngục, thà ở cõi trần đau khổ này còn hơn. Bài thơ tự trào thật chua chát, cay đắng nhưng không hề có tinh thần thoát tục
 Đoạn 2: “ Nhật kí trong tù” thể hiện một tinh thần dân chủ sâu sắc của mĩ học Hồ Chí Minh:
 “Đầy mình đỏ tím như hoa gấm
 Sột soạt luôn tay tựa gẩy đàn
 Mặc gấm bạn tù đều khách quí 
 Gảy đàn trong ngục thảy tri âm”.
 Bài thơ có giọng đùa vui thoải mái giống như nhiều bài thơ khác của Hồ Chí Minh. Qua tiếng cười rất đỗi hồn nhiên ấy, nhà thơ muốn nói điều này: Hồ Chí Minh cũng chẳng phải xương thịt gì đặc biệt, da thịt cũng như da thịt mọi người mà thôi , bẩn thì ghẻ, ghẻ thì gãi và gãi ghẻ cũng có những cái thú riêng của nó. Cả một nhà lao cùng gãi ghẻ thì thật hiểu nhau vô cùng, thật là “tri âm, tri kỷ”... Có ai đó nói rất đúng rằng: Hồ Chí Minh rất vĩ đại nhưng vĩ đại nhất là Bác không bao giờ tự coi mình là vĩ đại. Đó chính là trường hợp bài thơ này.
 Để viết hay, hấp dẫn, người viết phải biết trình bày linh hoạt giữa hai yếu tố: dẫn chứng và phân tích. Có thể thực hiện theo các cách sau: 
- Dẫn chứng - phân tích.
- Phân tích - dẫn chứng.
- Phân tích - dẫn chứng - phân tích.
Bài tập 1: Giáo viên đưa ra tình huống - Học sinh thảo luận
Có người nói: "Làm văn chứng minh cũng dễ thôi, chỉ cần nêu luận điểm và dẫn chứng là xong". Ví dụ sau khi nêu luận điểm "Tiếng Việt ta giàu đẹp", chỉ cần dẫn ra câu ca dao :
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng...
	Theo em, nói như vậy có đúng không? Để làm được văn chứng minh, ngoài luận điểm và dẫn chứng, còn cần phải có thể điều gì? Có cần chú ý tới chất lượng của luận điểm và dẫn chứng không? Chúng cần phải như thế nào thì đạt yêu cầu? 
Hướng dẫn:
	Giáo viên lưu ý cho học sinh thấy là qua câu trả lời, người nói tỏ ra không hiểu về cách làm văn lập luận chứng minh. Chứng minh trong văn nghị luận đòi hỏi phải phân tích, diễn giải sao cho dẫn chứng "nói lên" điều mình muốn chứng minh. Điều cần lưu ý nữa là dẫn chứng phải tiêu biểu. Câu ca dao trên làm theo thể lục bát, tiêu biểu cho Tiếng việt đẹp về thanh điệu, vần nhịp nhưng phải diễn giải thì điều cần chứng minh ở đó mới có sức thuyết phục.
Bài tập 2: (Chữa lỗi diễn đạt, trình bày). Có bạn học sinh đã viết một đoạn của đề bài chứng minh: "Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào" như sau:
Những câu ca dao nói về tình cảm giữa con cháu và ông bà tổ tiên của mình:"Chim có tổ người có tông".
Câu ca dao này cho cho thấy mọi người khi sinh ra thì ai cũng phải có nguồn gốc tổ tiên của mình.
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”
 Tình cảm của con cháu đối với ông bà được câu ca dao này nói tới.Hãy nêu nhận xét của em về đoạn văn trên?
Hướng dẫn:
- Đoạn văn đã triển khai luận điểm: Ca dao là tiếng hát về tình cảm giữa con cháu đối với ông bà.
- Cách diễn đạt vẫn chưa đạt yêu cầu.
+ Lý lẽ nói ca dao, dẫn chứng nêu là tục ngữ ® sai về thể loại.
+ Giữa 2 dẫn chứng không liền mạch, cách đưa dẫn chứng giống nhau (dẫn chứng - phân tích).
+ Lời phân tích thuyết minh còn chung chung, còn rất vụng - không có sức thuyết phục, sức lay động lòng người.
Sau khi nghe hướng dẫn, học sinh đã viết:
	Ca dao dành những lời trân trọng, thành kính nhất để nói về ông bà, tổ tiên của mình, ông bà là gốc của gia đình, cháu con luôn ghi nhớ công ơn phúc lộc mà ông bà để lại:
“Con người có cố, có ông
Như cây có cội như sông có nguồn.”
	Cây có cội mới sống được, sông có nguồn mới có nước, mới thành sông. Mượn hình ảnh ẩn dụ "cội", "nguồn" câu ca dao muốn nói đến lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với công ơn lớn lao của ông bà, tổ tiên. Và tình cảm nhớ thương ông bà là tình cảm con cháu luôn giữ gìn.
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.”
	Mới ngó lên những mối buộc "nuộc lạt mái nhà" mà trong lòng con cháu đã trào dâng bao nỗi niềm nhớ thương. Phép so sánh "bao nhiêu..... bấy nhiên" diễn tả tình cảm đó thật sâu nặng và nồng nàn biết bao!
	Qua đoạn văn tham khảo, tôi muốn nhắc nhở các em phải linh hoạt, sáng tạo nhiều hơn khi viết đoạn văn chứng minh. 
h. Bài tập luyện cách liên kết đoạn.
- Đoạn văn không tồn tại độc lập, riêng biệt mà chỉ là một bộ phận của bài văn, khi viết đoạn, phải xác định xem đoạn văn ấy nằm ở vị trí nào của bài văn, có thế mới tạo được sự liên kết, liền mạch của bài viết.
- Học sinh không chỉ viết đoạn tốt mà giữa các đoạn trong văn bản , kỹ năng liên kết đoạn cũng rất cần thiết.
Bài tập 1: Tìm hiểu cách liên kết đoạn của hai đoạn văn trong văn bản "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta".
	“Lịch sử ta đã có những cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
	Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cùng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc..."
Hướng dẫn:
- Hai đoạn văn cùng hướng về nội dung: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
+ Đoạn 1: Tinh thần yêu nước của nhân dân trong quá khứ.
+ Đoạn 2: Tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Hai đoạn văn liên kết liền mạch không chỉ bằng nôi dung của các câu văn mà tác giả còn sử dụng câu chuyển ý rất tự nhiên: "Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước". Không chỉ có tác dụng liên kết mà còn diễn tả được lịch sử dân tộc anh hùng mang truyền thống yêu nước từ ngàn xưa được nối tiếp trong dòng chảy của thời gian, trong mạch nguồn sức sống của dân tộc.
Bài tập 2: Cho đề văn sau :
	Qua bài: "Một thứ quà của lúa non: Cốm" và "Mùa xuân của tôi" hãy chứng minh: Dù viết về một thứ quà bình dị hay về kỷ niệm của một người xa quê thì chỗ hay nhất của những áng văn xuôi ấy vẫn là tâm tình sâu nặng, thiết tha đối với quê hương đất nước.
* Có bạn đã viết 2 đoạn văn cho đề trên như sau:
Qua ngòi bút Thạch Lam trong bài "Một thứ quà của lúa non: Cốm" và của Vũ Bằng trong bài "Mùa xuân của tôi" ta có thể nhận thấy: "Chỗ hay nhất của những áng văn xuôi ấy vẫn là tâm tình sâu nặng, thiết tha với quê hương đất nước". Thạch Lam đã gửi gắm tình cảm của mình trong cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế, trong lành về màu cốm. Thoáng đi qua đầm sen hay đồng lúa, Thạch Lam đã nhớ cốm và cảm nhận được bước chân mùa cốm đang về. Với lòng yêu đất mẹ, nhà văn đã khẳng định: "Cốm là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát".
(...) Ta hãy cảm động lắng nghe Vũ Bằng nhớ về mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội. Nhà văn nghĩ về cái tình yêu, nỗi nhớ rất tự nhiên của con người: "Ai bảo bướm đứng thương hoa, trăng đứng thương gió..." để rồi khẳng định nỗi nhớ niềm yêu rất con người của mình. Đọc văn của Vũ Bằng, ta cũng xúc động nao nao nhớ Hà Nội, như gặp một kỷ niệm nào trong nỗi nhớ của ông. Ôi cái "mưa riêu riêu, gió lạnh lạnh ... tiếng trống chèo..." làm sao không rung động nỗi lòng, làm sao lại không đồng cảm với nỗi nhớ của người xa xứ được?
Em hãy giúp bạn chọn một trong những câu sau điền vào chỗ trống (...) để làm cho hai đoạn văn liên kết với nhau.
A. Thưởng thức một thứ quà bình dị là niềm yêu thương tha thiết của Thạch Lam, còn với Vũ Bằng - người con xa xứ - nhớ về quê hương lại là một niềm hạnh phúc lớn lao.
B. Tâm tình sâu nặng thiết tha của Thạch Lam là như vậy, còn 
 với Vũ Bằng thì sao?
C. Đọc bài "Mùa xuân của tôi" các bạn sẽ thấy rõ điều đó.
D. "Mùa xuân của tôi" của Vũ Bằng cũng thật sâu nặng thiết tha 
 đối với quê hương.
Hướng dẫn: Đáp án A, B, D.
Bài tập này nên chọn nhiều đoạn khác nhau để học sinh được rèn kỹ năng liên kết câu, liên kết đoạn.
- Có nhiều cách liên kết đoạn (liên kết nội dung, liên kết hình thức...)
 + Các câu viết trên là liên kết nội dung.
 +Có thể dùng những quan hệ từ, những phụ từ để liên kết (nhưng, và, cũng...).
* Kết quả thực hiện:
 Khi áp dụng các giải pháp, biện pháp trên để hướng dẫn học sinh năm học 2020- 2021, tôi thấy học sinh tiến bộ rõ rệt, bài kiểm tra sau điểm cao hơn bài kiểm tra trước, kết quả được nâng cao. Quan trọng hơn là học sinh đã biết viết được đoạn văn nghị luận chứng minh đúng và hay. Kết quả đạt được như sau:
Khối lớp
SLHS
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7A
31
5
16,1
13
42,0
11
35,5
02
6,5
7B
31
6
19,4
12
38,7
12
38,7
01
3,2

Với kết quả trên tôi nhận thấy việc áp dụng các giải pháp và bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn chứng minh trong văn nghị luận đã thu được những kết quả đáng khích lệ, các em học sinh đều có khả năng nhận diện bài tập và có kỹ năng viết đoạn văn chứng minh khá tốt.
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
 Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, người giáo viên phải luôn không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ nhận thức và trình độ chuyên môn. Sự sáng tạo là yêu cầu cần phải có của người giáo viên khi làm công tác dạy học. Trên cơ sở đó giúp học sinh của mình tiếp thu bài, hình thành kỹ năng, kĩ xảo tốt hơn.
 Văn chứng minh là kiểu bài rất quan trọng của văn nghị luận,hướng dẫn học sinh viết đoạn văn chứng minh không phải là một nội dung hoàn toàn mới trong chương trình Ngữ Văn THCS. Tuy nhiên để học sinh có được kỹ năng viết đoạn văn đúng, hay thì cần có sự hướng dẫn tỉ mỉ, tận tình, kĩ càng của giáo viên bộ môn. Người thầy phải trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản của dạng bài; xác định trọng tâm cần truyền đạt; kết hợp sự phân tích, tạo tình huống hứng thú, từ đó khích lệ được các em chủ động tìm tòi, suy nghĩ và viết bài. Người thầy cần có kế hoạch xây dựng chương trình, cụ thể từ dễ đến khó, khắc sâu kiến thức thành một hệ thống, để học sinh tự ý sáng tạo khi viết bài, tránh áp đặt cho học sinh. Bên cạnh đó người thầy phải xác định cho mình mục tiêu duy nhất đó là cái tâm và sự chân thành, gần gũi thương yêu học sinh để vừa tạo sự thân mật và hứng thú cho học sinh trong học tập.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi khi dạy kiểu bài nghị luận chứng minh, nhất là làm “Bài tập rèn kỹ năng viết đoạn văn chứng minh cho học sinh lớp 7”.
3.2. Kiến nghị, đề xuất.
 Từ những kinh nghiệm nhỏ trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra một vài đề xuất như sau :
* Đối với nhà trường :
- Thư viện nhà trường nên bổ sung thêm các tài liệu tham khảo, sách nâng cao, sách các bài văn mẫu phong phú hơn về văn nghị luận để giáo viên và học sinh đọc tham khảo.
* Đối với giáo viên :
- Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này về phía giáo viên phải thực sự nhẫn nại, uốn nắn từng cách viết, kiên trì trong việc kiểm tra, đánh giá, chỉnh sửa các phần viết luyện kỹ năng của các em. Đồng thời, giáo viên cũng cần sưu tầm thêm những tư liệu hữu ích cung cấp cho các em. Mặt khác, giáo viên cũng tìm cách hướng các em cách vận dụng sáng tạo những tư liệu để biến thành cách diễn đạt riêng của mình.
* Về phía học sinh:
- Các em phải tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ thuật bằng niềm đam mê đối với phân môn Tập làm văn. Luôn tìm tòi, sáng tạo trong cách học.Các em học với niềm say mê, yêu thích thực sự với thể loại văn nghị luận này.
Trong quá trình thực hiện bài viết, khó tránh khỏi những hạn chế, tôi mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Phần mở đầu
1
1.1. Lý do chọn sáng kiến
1
1.2. Điểm mới và phạm vi áp dụng sáng kiến
1-2
2. Phần nội dung
3
2.1. Thực trạng của vấn đề
2-4
2. Các giải pháp và bài tập rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn chứng
4-17
3. Phần kết luận
18
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
18
3.2. Kiến nghị, đề xuất
18-19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy học Tập làm văn ở trường THCS - Nguyễn Trí - NXB Giáo Dục
2. Đọc Văn, học Văn của Trần Đình Sử ( NXB GD 2002) 
3. Hiểu Văn , dạy Văn của Nguyễn Thanh Hùng ( NXB GD Thành phố Hồ Chí Minh )
4. Một số bài viết của học sinh.
5. Những bài văn nghị luận đặc sắc lớp 7 (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội)
6. Sách giáo khoa, SGV Ngữ văn 7
7. Sách giáo khoa, SGV Ngữ Văn 8.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bai_tap_ren_ky_nang_viet_doan_van_chun.doc