Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9
Bác Hồ nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt”. Thấm nhuần lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta hiện nay rất quan tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Ngành giáo dục đã có những bước tiến mới để phù hợp với công cuộc cải cách giáo dục. Do đó, việc đổi phương pháp, nâng cao chất lượng giờ học luôn là mục tiêu mà mỗi người giáo viên đứng lớp quan tâm, trăn trở và tìm cách thực hiện, nhằm mang đến hiệu quả tối đa cho giờ dạy học của bản thân và học sinh. Mỗi người giáo viên trực tiếp giảng dạy, ngoài việc vận dụng tốt những phương pháp, phương tiện thiết bị dạy học, cách thức kiểm tra đánh giá học sinh theo đề án đổi mới giáo dục ở các chuyên đề được tiếp thu, cũng cần phải có những cách thức riêng cho mình để có thể áp dụng vào thực tế công tác, vào điều kiện giảng dạy của bản thân, nhà trường, địa phương. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn không nằm ngoài những định hướng đổi mới nói trên.
Và như chúng ta đã biết, Ngữ văn chính là bộ môn dễ gây xúc động vui, buồn tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người, giúp con người phát huy đầy đủ năng lực phẩm chất để xây dựng cuộc sống, và hướng con người tới đỉnh cao của chân, thiện mỹ. Nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn là phải làm cho học sinh hiểu được cái hay cái đẹp của văn học, kích thích sự hứng thú học tập học văn cho học sinh. Điều đó muốn khẳng định rằng bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ văn là một việc rất quan trọng và rấtcần thiết. Nó góp phần phát hiện bồi dưỡng để tiến tới đào tạo một phẩm chất, một lực lượng lao động đặc biệt của xã hội, lao động sáng tạo nghệ thuật. Nó kích thích cổ vũ mạnh mẽ ý thức tự giác, lòng say mê và ý chí vươn lên trong học tập, tu dưỡng của học sinh.
Để làm được điều đó giáo viên Ngữ văn phải giúp cho các em say mê học Văn. Việc này chỉ đạt được kết quả cao khi thầy cô biết động viên khích lệ các em trong học tập, biết tạo điều kiện để các em tự bộc lộ được khả năng của mình và say sưa tham gia xây dựng bài, tích cực tự giác, tự học, tự rèn luyện.Giáo viên hướng dẫn, khơi dậy khả năng, năng lực cảm thụ văn học của học sinh trên cơ sở vốn hiểu biết học sinh đã có và cao hơn nữa là cung cấp cho các em những điểm mới,sâu hơn về văn học mà học sinh chưa có, từ đó giúp các em vận dụng vào việc làm văn hiệu quả. Là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy và tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9, tôi luôn trăn trở về vấn đề này. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ văn 9” để nghiên cứu, thực nghiệm; mong muốn góp một phần nhỏ vào công tác bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ văn 9 đạt hiệu quả cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9
i dung, nghệ thuật,... để lí giải. Cần chú ý xây dựng luận điểm, lựa chọn dẫn chứng và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ ý kiến. - Bình luận (nhận xét – đánh giá, mở rộng, nâng cao) + Khái quát những nội dung đã triển khai. + Đánh giá ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đó đối với văn học, cuộc sống. *Kết bài: - Khẳng định lại tính chất đúng đắn của vấn đề. - Rút ra những bài học, gửi đến thông điệp cuộc sống từ vấn đề đã nghị luận. 3.3. Giải pháp thứ 3: Vận dụng làm các dạng bài so sánh văn học và dạng bài nghị luận văn học làm sáng tỏ một ý kiến, nhận định để khắc sâu và nâng cao kiến thức đã ôn tập. 3.3.1. Phương pháp thực hiện: Đây là một trong những dạng bài khó, nhưng học sinh dễ có cơ hội để phát huy năng khiếu và sở trường riêng của một HSG. Nó đòi hỏi học sinh vừa nắm được những vấn đề cụ thể, chi tiết, vừa biết khái quát tổng hợp và lý giải vấn đề. Có thể so sánh tác phẩm cùng đề tài, cảm hứng trong một giai đoạn văn học, của một tác giả hoặc khác giai đoạn, khác tác giả... 3.3.1.1 Đối với dạng bài bài so sánh văn học: Giáo viên hướng dẫn học sinh dàn ý chung của bài nghị luận so sánh văn học và dạng bài nghị luận văn học làm sáng tỏ một ý kiến, nhận định để khắc sâu và nâng cao kiến thức đã ôn tập: * Mở bài - Dẫn dắt vấn đề: Tìm một điểm chung nào đó của hai đối tượng để dẫn dắt. - Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh * Thân bài - Phân tích nội dung và nghệ thuật của hai đối tượng - So sánh các đối tượng + Nét tương đồng + Nét khác biệt - Lý giải sự tương đồng, khác biệt giữa hai đối tượng Dựa vào bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học * Kết bài - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu, những cảm nghĩ của bản thân 3.3.2. Đối với dạng bài nghị luận văn học làm sáng tỏ một ý kiến, nhận định Giáo viên hướng dẫn học sinh cách dẫn dắt viết mở bài, liên kết cho phù hợp và một số chú ý khi làm dạng bài nghị luận văn học làm sáng tỏ một ý kiến, nhận định để khắc sâu và nâng cao kiến thức đã ôn tập: * Khi viết mở bài phải dẫn dắt, liên kết cho phù hợp. -Đề bài nêu ý kiến, nhận định về một hay vài tác phẩm văn học cụ thể, sau đó yêu cầu dựa vào một hay vài tác phẩm văn học đó làm rõ. + Dẫn dắt vấn đề + Nêu tác phẩm (hoặc nhóm tác phẩm) + Nêu ý kiến -Đề bài nêu một ý kiến, nhận định sau đó yêu cầu dựa vào một, hay vài tác phẩm văn học cụ thể hoặc không cụ thể làm rõ. + Dẫn dắt vấn đề + Nêu ý kiến + Nêu tác phẩm (hoặc nhóm tác phẩm) * Một số chú ý khi làm bài nghị luận văn học sáng tỏ một ý kiến, nhận định - Đọc kĩ đề để hiểu rõ ý kiến, nhận định đó về vấn đề gì? Về nội dung,hay nghệ thuật của tác phẩm ? Về một nhân vật,một tác phẩm hay nhiều nhân vật, nhiều tác phẩm? - Đối với câu hỏi yêu cầu làm rõ ý kiến , nhận định mà không cho tác phẩm cụ thể thì học sinh cần chọn lọc tác phẩm để phân tích (nên là những tác phẩm hay đã được học qua, nhiều người biết đến và bản thân yêu thích cho phù hợp với nhận định đưa ra). -Đối với những câu hỏi yêu cầu làm sáng rõ nhận định với nhiều tác phẩm, nhiều nhân vật nên tổng hợp ý tương đồng, tổng hợp dẫn chứng tương đồng rồi phân tích theo từng ý lớn, tránh lẫn lộn, lan man và rời rạc. 3.3.2. Ví dụ minh họa: *Ví dụ 1: Đề bài: Cảm nhận về vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu và " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật. Tôi đã hướng dẫn học sinh lập dàn ý như sau: * Mở bài - Giới thiệu khái quát về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. - Nêu cảm nhận chung về hình ảnh người lính trong hai bài thơ. * Thân bài LĐ1. Cảm nhận về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” - Tác giả Chính Hữu lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính + Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: “quê hương anh”, “làng tôi” + Cùng chung lí tưởng chiến đấu: “Súng bên súng” gợi lên sự tương đồng về lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu,“đầu sát bên đầu” diễn tả ý chí quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp. + Tình cảm đồng chí được bồi đắp qua sự sẻ chia những gian lao của cuộc chiến. - Bức chân dung người lính còn được phác họa qua sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội + Đồng cam cộng khổ vượt qua mọi thiếu thốn: “Áo anh rách vai”, “Quần tôi có vài mảnh vá”, “Chân không giày”. + Luôn sẵn sàng yêu thương, sẻ chia: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” - Hình ảnh người lính được phác họa trong sự quyện hòa giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” LĐ 2. Cảm nhận về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả tái hiện thông qua sự song hành, sóng đôi với hình ảnh “những chiếc xe không kính”: + Gợi hiện thực tàn khốc của cuộc chiến + Miêu tả chân thực con đường ra mặt trận đầy hiểm nguy - Vẻ đẹp của người lính được thể hiện qua sự tư thế ung dung, hiên ngang, bất chấp mọi hiểm nguy + Họ chấp nhận những gian khổ bằng tinh thần coi thường, bất chấp mọi hiểm nguy: “Ung dung buồng lái ta ngồi” + Họ đối diện với sự khắc nghiệt, tàn khốc của cuộc chiến:“gió vào xoa mắt đắng”, “sao trời”, “cánh chim” đột ngột như “sa”, “ùa” vào buồng lái. - Vẻ đẹp của người lính được thể hiện qua tình cảm đồng đội và trái tim yêu nước: + Hình ảnh chân thực “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” đã gợi ra sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc giữa những người lính + Cách nói hình ảnh “vì miền Nam phía trước” đã thể hiện niềm tin, tinh thần lạc quan của người lính + Hình ảnh hoán dụ “một trái tim” đã làm nổi bật “trái tim cầm lái” luôn rực cháy ngọn lửa yêu nước và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của người lính. LĐ 3. Cảm nhận về vẻ đẹp chung và riêng của hình ảnh người lính trong hai bài thơ - Vẻ đẹp chung: + Lí tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc + Tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt + Sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt. - Vẻ đẹp riêng: + Ở bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu khắc họa vẻ đẹp của người nông dân mặc áo lính thông qua sự mộc mạc, chân chất và sự quyện hòa giữa chất hiện thực - lãng mạn. + Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, bức chân dung người chiến sĩ lái xe hiện lên qua sự trẻ trung, sôi nổi, ngang tàng. * Kết bài Khái quát về giá trị của hình tượng người lính qua hai tác phẩm. *Ví dụ 2: Bằng sự hiểu biết về truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng mà em đã học, hãy trình bày suy nghĩ của em về nhận định: “Chiếc lược ngà” là bài ca bất tử về tình cảm cha con của người lính trong chiến tranh. Qua dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh về tác phẩm: nắm hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu khái quát giá trị nội dung - nghệ thuật của tác phẩm; năng lực chọn lựa và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật ở nhiều cấp độ khác nhau: chỉnh thể tác phẩm - hình tượng - chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ... 4. Kết quả ứng dụng Trên đây là nội dung đề tài “Bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ văn 9”. Bản thân tôi trong quá trình luyện kĩ năng cho học sinh lớp 9 học cũng như ôn luyện bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đã ứng dụng việc ôn tập kiến thức phân môn Văn học theo mô hình sáng kiến này và đã thu được những kết quả khả quan. Kết quả cụ thể như sau: 4.1. Kết quả khảo sát đầu năm môn Ngữ văn khối 9 năm học 2021 – 2022 của trường THCS nơi tôi công tác. Tổng số HS dự thi Kết quả Điểm 9 -10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 TS % TS % TS % TS % 52 0 0 12 23,1 29 55,7 11 21,2 4.2. Kết quả kiểm tra cuối kỳ I môn Ngữ văn khối 9 năm học 2021 – 2022 của trường THCS nơi tôi công tác. Tổng số HS dự thi Kết quả Điểm 9 -10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 TS % TS % TS % TS % 52 6 11,6 25 48,1 19 36,5 2 3,8 4.3. Kết quả thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp huyện khối lớp tôi dạy trong năm học 2020 – 2021 của trường THCS nơi tôi công tác. Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 02 em 01 em 4.3. Kết quả thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp huyện khối lớp tôi dạy trong năm học 2021 – 2022 của trường THCS nơi tôi công tác. Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 02 em 02 em (Giải Ba) Sau khi áp dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi cho học sinh lớp 9 nơi tôi công tác từ năm học 2019-2020 đến nay, tôi thấy kết quả có sự thay đổi khá rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan, học tập sôi nổi có hứng thú. Đặc biệt, từ kết quả thi học sinh giỏi môn Ngữ văn khối 9 cấp huyện của trường THCS nơi tôi công tác năm học 2021 - 2022 trên chính là tiền đề, là động lực giúp cho tôi giảng dạy và các em học tập tốt hơn. PHẦN THỨ BA:KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Có thể nói môn Ngữ văn là một môn khó, đòi hỏi người dạy có tâm huyết, đủ tri thức để giảng dạy. Khi người thầy biết cảm thụ văn chương, biết truyền cái hay của tác phẩm đến cho người học thì sẽ giúp cho tâm hồn các em được thanh lọc, được bừng tỉnh, dần dần các em sẽ tìm thấy hứng thú trong các giờ văn, từ đó mà yêu thích môn văn, có kĩ năng viết văn, làm văn. Muốn vậy, người thầy phải nêu cao vai trò “tự học, sáng tạo” để tích luỹ kiến thức cần thiết để vừa có kiến thức giảng dạy vừa đáp ứng với nhu cầu của xã hội. Để đạt được kết quả như trên, bản thân tôi đã không ngừng học tập, trau dồi kiến thức, rút kinh nghiệm, sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm vốn có, giúp đỡ đồng nghiệp bằng tất cả khả năng. Và có thể nói rằng, phương pháp “Bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi học sinh giỏi môn Ngữ văn 9” chỉ là một trong nhiều phương pháp khác nhau và cũng chỉ là một trong nhiều yếu tố góp phần tạo nên thành công trong dạy học Ngữ văn 9. Bởi phương pháp nào cũng vậy, dù tối ưu đến mấy nhưng nếu thiếu niềm say mê, thiếu tinh thần trách nhiệm vì học trò thì cũng không thể đem lại hiệu quả cao. 2. Khuyến nghị: Khi thực hiện đề tài, sáng kiến kinh nghiệm này, tôi có một số băn khoăn muốn đưa ra để đồng nghiệp và các ban ngành quan tâm hơn nữa: - Mong các ban ngành quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục của xã nhà, nên tiếp tục có chính sách khuyến học để động viên học sinh học tập tốt hơn. - Nhà trường tham mưu với địa phương để tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, luôn quan tâm, động viên kịp thời đối với đội ngũ giáo viên, học sinh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học. - Tổ chuyên môn nên trao đổi, thảo luận sâu về phương pháp, cách làm mới; chia sẻ kinh nghiệm để cùng nhau học tập nâng cao chất lượng dạy và học. - Giáo viên cần tích cực hơn nữa trong việc đổi mới, sáng tạo phương pháp giảng dạy để tạo hứng thú, say mê cho học sinh học Ngữ văn ở THCS. Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi trong quá trình hướng dẫn, bồi dưỡng kĩ năng học và ôn luyện thi cho học sinh, để góp phần vào việc giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục môn Ngữ văn. Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, khả năng bản thân còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí, các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Lời cam đoan: Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn ( văn bản) theo những phương thức và bằng những phương tiện khác nhau. Dựng đoạn được triển khai từ ý trong dàn bài. Có thể đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng có thể một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục ba phần: mở đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn. Để rèn luyện được kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu cầu diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sao cho phù hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn hút hơn với người đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với kĩ năng luyện nói trên lớp. Có triển khai ý thành đoạn cũng mới tiến hành được. Đây là những thao tác, những kĩ năng có khi thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng một lúc. Qua đó, ta có thể hiểu được: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết trong đoạn văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát,và dùng câu nối trong đoạn văn. Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Như vậy, các phương tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nhưng đồng thời chúng cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác, lại có những phương tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa chọn các phương tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của người viết, với sự việc được phản ánh và tình huống giao tiếp cụ thể. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình THPT. Mặc dù vậy, học sinh ở các trường THCS, phần lớn có khuynh hướng không thích học văn mà đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các em. MỤC LỤC Nội dung Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. 1 2.Mục đích nghiên cứu. 2 3.Đối tượng nghiên cứu. 2 4. Phạm vi thực hiện. 3 5. Phương pháp nghiên cứu. 3 6. Thời gian thực hiện. 3 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận 3 2. Thực trạng vấn đề 4 3. Các biện pháp nghiên cứu 5 3.1. Ôn tập, kiểm tra khả năng nắm kiến thức cơ bản của học sinh. 5 3.2. Rèn kỹ năng làm dạng bài văn ( đoạn văn) nghị luận xã hội và nghị luận văn học cho học sinh. 10 3.3. Vận dụng làm các dạng bài so sánh văn học và dạng bài nghị luận văn học làm sáng tỏ một ý kiến, nhận định để khắc sâu và nâng cao kiến thức đã ôn tập. 13 4. Kết quả ứng dụng 17 III.KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận 18 2. Khuyến nghị 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THCS. 2. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở” của Bộ GD&ĐT, NXB Giáo dục 3.Sách giáo viên Ngữ văn 9, NXB Giáo dục 4. Sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9, NXB Giáo dục 5. 199 bài văn và đoạn văn hay lớp 9, NXB Giáo dục
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_boi_duong_ki_nang_hoc_va_on_luyen_thi.doc

