Sáng kiến kinh nghiệm Các dạng bài tập rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 6

Như chúng ta đã biết, một con người được sống đầy đủ bởi hai điều kiện sống: vật chất và tinh thần. Riêng đời sống tinh thần vô cùng đa dạng. Một trong biểu hiện của nó là được yêu thương và biết yêu thương, được ước mơ, được ước mơ, được thưởng thức cái hay, cái đẹp của cuộc đời, có nghĩa là được thưởng thức, được cống hiến.

Một trong những điều đem lại cho con người niềm vui sống là biết cảm nhận cái hay, cái đẹp, ý nghĩa cuộc sống qua những áng thơ văn… Dù sau này con người ấy hướng theo nghề nào đi chăng nữa, Vì ở các tác phẩm văn chương, cuộc sống đã được kết tinh thành cái đẹp qua tài năng , tình cảm, tâm huyết của người viết.

Là một học sinh bắt đầu học lớp 6, nếu các em biết cảm nhận và tập làm các bài tập cảm thụ bước đầu có kết quả, sẽ giúp các em hiểu và yêu văn chương hơn, sẽ phần nào giúp các em học tốt hơn môn Ngữ văn, đặc biệt nó có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, là hành trang cho mỗi người trên suốt đường đời, bởi lẽ cái gì đã lưu giữ được trong thời niên thiếu thường rất khó phai mờ. Văn học không chỉ góp phần làm giàu có tâm hồn, nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp, mà còn giúp cho trẻ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết và hướng tới một lối sống giàu lòng nhân ái.

Muốn rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn, các em nên rèn làm một số dạng bài tập cảm thụ từ dễ đến khó. Dần dần khi kĩ năng thành thạo, lên lớp trên, các em sẽ làm bài tập khó hơn, dài hơn. Tất nhiên muốn làm được các bài tập này, các em phải được hướng dẫn từng bước cụ thể, các em sẽ dung các kiến thức cơ bản mà thầy cô giáo của các em đã dạy trên lớp để vận dụng linh hoạt vào bài tập. Đó là vốn mà nhà trường cung cấp cho các em trong năm năm Tiểu học và trong năm lớp 6 đầu cấp THCS về môn Ngữ văn.

docx 24 trang Trang Lê 16/03/2025 190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Các dạng bài tập rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Các dạng bài tập rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 6

Sáng kiến kinh nghiệm Các dạng bài tập rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh Lớp 6
Bài tập: Có một bài thơ lục bát như sau:
	Cái Chổi thấy rác, quét nhà
	Anh Kin chị Chỉ giúp bà vá may
	Bạn Vở chép chữ cả ngày
 	Cô Mướp xòe lá , vươn tay leo dàn
	Đồng hồ biết chỉ thời gian
	Cái Rá vo gạo, câu Than đốt lò
`Chú Gà bảo sáng; “Óo”.
Bác Cửa vội mở để cho nắng vào.
 	Mỗi người mỗi việc vui sao!
	Bé ngoan là được việc nào, Bé ơi!
a. Bài thơ trên có dấu hiệu nghệ thuật nào được dùng chủ yếu trong bài? Hiệu quả của nó?
b. Từ hiểu bài thơ, hãy đặt vấn đề?
Trả lời:
a. Bài thơ trên,nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc lực. Nhờ nhân hóa, các vật vô tri, vô giác đã trở thành những con người yêu lao động đáng mến xung quang Bé: cái Chổi quết nhà, anh Kim chị Chỉ vá may, bạn Vở chép chữ, cô Mướp leo dàn, Đồng Hồ chỉ thời gian, cái Rá vo gạo, cậu Than đốt lò, chú Gà báo trời sáng, bác Cửa mở cửa đón nắng vào nhà Tất cả con vật nêu trên đều có những việc làm suy nghĩ như con người. Chính vì vậy tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.
b. Có thể đặt đầu đề cho bài là :
 -“ Bận rộn”
 	 -“ Mỗi người mỗi việc”
	 -“Vui làm việc”
	 -“ Yêu lao động”.
Dạng bài tập 3: Vận dụng sáng tạo kiến thức vào những tác phẩm ngoài chương trình,
Bài tập: Hãy thưởng thức vẻ đẹp của sen trong một bài ca dao của Việt Nam :
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
	Lá xanh, bong trẳng lại chen nhị vàng
	Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
	Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
a. Tìm hiểu trình tự tả, cách tả một bông sen, rồi tả cả đầm sen của bài ca dao?
b. Viết cảm nghĩ, liên tưởng, phân tích bài ca dao trong đoạn văn ngắn từ 10 đến 12 câu?
Trả lời:
a. –Trước khi tả bông sen, câu ca dao thứ nhất có nhiệm vụ giới thiệu sen, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của sen bằng nghệ thuật so sánh hơn kém.
- Câu ca dao 2 tả bông sen theo trình tự từ ngoài vào trong (lábôngnhị)
- Câu ca dao 3 tả một bông sen nữa theo trình tự quay lại (nhịbônglá), nghĩa là từ trong ra ngoài bông sen.
- Chắc chắn còn tả tiếp bông thứ ba, thứ tư cho đến hết đầm, tưởng tượng theo tay trỏ của người tả. Vậy tả hai bông sen theo lối vừa lặp , vừa đảo là để tả cả đầm sen bát ngát( đây là hai hình ảnh biểu trưng cho đầm sen).
b. Viết đoạn văn ngắn để nêu cảm nghĩ , liên tưởng, phân tích bài ca dao trên. Sau đây là một hướng viết:
“Bốn câu ca dao đã giới thiệu cho chúng ta hoa sen và đầm sen. Câu một làm hai nhiệm vụ: vừa giới thiệu hoa sen, vừa ca ngợi vẻ đẹp không gì sánh bằng qua nghệ thuật so sánh hơn , kém. Bông sen đã thể hiện trước mắt chúng ta qua cách tả rất độc đáo từ ngoài vào trong của cấu tạp bông hoa.
	“Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng”.
Ba từ miêu tả sắc màu thật trang nhã: xanh, trắng, vàng đã đem lajiver dịu dàng của sen. Ta tưởng tượng như người tả đang trỏ tay vào từng bông , từng nét đẹp của hoa để giới thiệu với người ngắm cảnh. Câu ba vừa lặp lại, vừa đảo các bộ phận của một bông sen:
	“Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”
Ta hình dung còn tiếp nữa: bông thứ ba, bông thứ tư và hết cả đầm sen. Vậy tả hai bông là để bạn tưởng tượng cả đầm sen bát ngát , thơm ngào ngạt. Lối tả của dân gian thật tinh tế. Câu 4 đã gây ra bất ngờ khi nói về môi trường sống của sen:
	“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Câu 4 đã khiến người đọc liên tưởng từ sen đến con người. Dù con người có sống nghèo khổ, họ vẫn ngời lên phẩm chất cao đẹp, đáng quý.”
	(Đoạn văn gồm 12 câu)
Dạng bài tập 4: Bài tập tổng hợp.
Bài tập: Trong sách giáo khoa Ngữ văn 6, tập hai ( trang 100)- phần đọc thêm có đoạn thơ:
Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre
* *
*
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu!
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chất dồn lâu hóa nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bong râm
	(Thép Mới)
a) Đoạn thơ viết theo phương thức biểu đạt chính nào?
A. Tự sự
B. Miêu tả
C. Lập luận
D. Biểu cảm
b) Cả bốn phương thức A,B,C,D.
A. Đoạn thơ được sử dụng hai biện pháp tu từ nghệ thuật chính nào?
B. Điệp ngữ- nhân hóa
C. Nhân hóa- ẩn dụ
D. Nhân hóa- so sánh
c. Viết đoạn văn ngắn để làm rõ yêu cầu sau: “ Qua a và b đã xác định trên, nội dung đoạn thơ được biểu hiện rất sâu sắc và sáng tạo ”
(Đoạn văn từ 10 đến 12 câu)
Trả lời:	
a. E
b. B
a. Viết đoạn văn ngắn, dựa vào hiểu biết từ a và b:
	Nói về tre Việt Nam, nhiều tác giả đã viết thành công. Song , ở Nguyễn Duy, nhà thơ đã có những sang tạo mới khi viết về tre. Đoạn thơ trích từ “ Tre xanh, xanh tự bao giờ?...” đến “ Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm”, người viết đã phối hợp khéo léo cả bốn phương thức biểu đạt. Người đọc nhận ra giọng kể chuyện đầm ấm của tác giả: “Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh Ở đâu tre cũng xanh tươiTre xanh không đứng khuất mình bóng râm”. Đó là phương thức tự sự. Người đọc cũng nhận ra hình ảnh tre qua nghệ thuật tả của tác giả: “Thân gầy guộc, lá mong manh nên lũy, nên thành Vươn mình trong gió tre đu”. Người đọc còn nhận ra cách lập luận, lí giải của nhà thơ: “Tre xanh, xanh tự bao giờ mà sao cho dùCó gì đâu, có gì đâu ít chất dồn lâu hóa nhiều không ngại bao nhiêu bấy nhiêuvẫn”, phương thức biểu đạt có tính chất lập luận này đã gắn kết các chi tiết, các câu thơ thành một mạch hợp lí. Phương thức biểu cảm thể hiện rõ trong nghệ thuật nhân hóa tre như người: “Thân gầy guộc, lá mong manh”, “ Rễ siêng không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”, “ vươn mình trong gió tre đu”, “ Cây kham khổ vẫn hát ru”, “Yêu nhiềuTre xanh không đứng khuất mình bóng râm”. Nhân hóa tre nhu người, nhưng lại rất đúng đặc điểm của tre. Phối hợp với nhân hóa, đoạn thơ còn ngầm so sánh tre như con người Việt Nam với những phẩm chất cao quý: đoàn kết, vượt gian khổ, cần cù, lạc quan yêu đời và bất khuất.
 (Đoạn văn gồm 10 câu)
- Qua áp dụng kinh nghiệm “Các dạng bài tập rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6” vào thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh hiểu bài sâu sắc hơn, biết vận dụng thực tế cuộc sống vào bài viết tập làm văn nên bài viết văn sinh đông, chân thực hơn. Trước các tình huống giáo viên đặt ra trong giờ học, học sinh đã chủ động bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh đã phát hiện khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học. Đặc biệt trong giờ học, giáo viên và học sinh, học sinh với học sinh trao đổi đàm thoại với nhau về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm khiến cho giờ học Ngữ văn trở nên sôi nổi, nhẹ nhàng hơn không theo kiểu học sinh thụ động ghi chép máy móc những lời giảng của giáo viên.Với hệ thống bài tập phong phú được xây dựng như trên đã tạo ra cho các em hứng thú học tập, học sinh được tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình về tác phẩm. Kỹ năng viết văn, đánh giá về tác phẩm văn học tốt hơn. Quan trọng hơn là các em đã nhận thức được câu chuyện trong tác phẩm như có phần của chính em. Giúp các em hiểu, cảm thụ tác phẩm một cách trọn vẹn, đồng thời có ‎‎ý nghĩa giáo dục, giúp học sinh biết vươn lên làm những việc có ích trong cuộc sống.
- Các dạng bài tập trên tôi cho xen kẽ vào các giờ ngoại khóa, giờ luyện tập hoặc cho về nhà, sau đó hẹn ngày thu. Bài có thể chấm chữa tại lớp, hoặc về nhà chấm, nhận xét cụ thể từng dạng bài, từng em.
- Khi chấm chữa tôi cũng phân đối tượng cho điểm phù hợp để động viện , khích lệ các em.
	Khi trả bài tôi cũng nhận xét từng đối tượng, đề ra yêu cầu cần đạt với từng đối tượng cụ thể để các em thấy được mức độ làm bài của mình, từ đó rút kinh nghiệm cho các bài sau làm tốt hơn.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
Sau một năm thực hện đề tài, được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ Khoa học xã hội; sự hỗ trợ của các bậc phụ huynh; sự kiên trì, quyết tâm của các em học sinh; lòng tâm huyết, ham học hỏi, không ngừng trau dồi chuyên môn của bản than, tôi đã nghiên cứu tài liệu, phân tích thực trạng tìm ra những biện pháp thực hiện. Với những dạng bài tập nêu ở trên, tôi đã thu được kết quả đáng khích lệ. Chất lượng dạy học được nâng lên rõ rệt.
1. Về phía học sinh.
- Học sinh hứng thú học, giờ học sôi nổi. Các em được phát huy trí lực của mình một cách hiệu quả nhất, tiếp thu bài nhanh hơn, bài viết văn tốt hơn.
 - Với các dạng bài tập như vậy, các em được tự do bày tỏ ý kiến riêng của mình nên rất mạnh dạn và muốn được phát biểu. Bên cạnh những bài tập các em có thể trả lời dễ dàng khi chú ý nghe theo dõi bài, còn có những bài tập đòi hỏi sự tư duy của những em khá, hoặc có câu gợi mở của thấy. Các em viết đoạn văn phát biểu cảm tưởng đều rất hay, đặc biệt là với những em học sinh ở khối lớp chọn các em đã thể hiện những nét riêng, những ý tưởng rất độc đáo trong bài viết của mình.
2. Về phía giáo viên.
- Rõ ràng, với hệ thống bài tập cảm thụ trong giờ dạy học văn, người giáo viên đã phát triển được năng lực trí tuệ, óc thông minh sáng tạo của học sinh và thu được một kết quả xứng đáng trong quá trình lên lớp.
 - Tuy nhiên, mỗi dạng bài tập đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng nên khâu chuẩn bị bài của giáo viên phải thật chu đáo; bài tập phải vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ học trên lớp, vừa phải có khả năng gợi vấn đề suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo cho học sinh. Bài tập không tuỳ tiện, phải được xây dựng thành hệ thống lô-gic, có tính toán, giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chỉnh thể. Cần có loại bài tập đơn giản, cụ thể kết hợp với dạng bài tập tổng hợp khái quát nâng cao phù hợp để giúp học sinh đi từ dễ đến khó, từ phát hiện đến phân tích bình luận... Bài tập nói chung phải căn cứ vào đặc điểm nội dung, nghệ thuật của văn bản, nhằm làm cho học sinh nắm chắc văn bản, tiếng nói của nhà văn.
Trên đây là toàn bộ quá trình hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập cảm thụ văn học. Với các thao tác trên, học sinh đã chủ động tích cực bộc lộ cảm xúc trước các tình huống giáo viên đặt ra. Chính vì thế mà giờ học trở nên sôi nổi, học sinh dễ dàng hiểu được nội dung bài học,yêu thích học văn hơn...
3. Kết quả cụ thể.
Qua nhiều năm nghiên cứu thực hiện đề tài ở lớp 6 năm học trước và lớp 6A3, 6A6 năm học 2015-2016 tôi thấy học sinh có nhiều tiến bộ về kết quả môn văn.Các em hiểu bài và vận dụng vào bài viết chân thực, ít sáo rỗng hơn, cách nhìn nhận đánh giá vấn đề trong tác phẩm văn chương ít sai lệch. Các em có tiến bộ nhiều trong tư tưởng thái độ tình cảm, biết đoàn kết xây dựng tập thể, tình yêu thương gia đình, có ‎ý thức vươn lên, lòng tự hào với truyền thống dân tộc,lòng yêu quê hương đất nước được củng cố.Các em có thái độ ứng xử trong quan hệ giao tiếp đúng mực hơn, có văn hóa hơn. Đặc biệt hơn cả là các em nhận thức được “Văn học là nhân học”. văn học thật gần gũi với con người, phản ánh trung thực cuộc sống xã hội và xây dựng cho con người biết hướng về tương lai.Thực sự nó là món ăn tinh thần không thể thiếu được.Các em yêu văn học hơn và chăm học hơn
BẢNG SỐ LIỆU KẾT QUẢ CỤ THỂ:
Lớp
Sĩ số
Quá trình
Đoạn văn đúng yêu cầu
Đoạn văn chưa đúng yêu cầu
Số lượng
%
Số lượng
%
6A3
34
Trước khi thực hiện
10
28,6
24
71,4
Sau khi thực hiện
25
73,53
9
26,47
6A4
44
Trước khi thực hiện
12
27,27
32
72,73
Sau khi thực hiện
32
72,12
12
27,88

NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG:
- Được sự ủng hộ giúp đỡ của các đồng nghiệp trong tổ khoa học xã hội trong quá trình thực hiện đề tài.
- Các em học sinh lớp 6A3, 6A6 trường THCS mà mình dạy học đã nhiệt tình hăng hái tham gia trong quá trình tìm hiểu bài, đã phát huy tính tích cực chủ động của mình trong việc khám các bài tập. Cụ thể học sinh chuẩn bị bài, làm bài tập cô giao rất cẩn thận, chu đáo và tích cực phát biểu, tìm ra những chi tiết quan trọng trong các bài tập....
- Bản thân trong quá trình giảng dạy tôi luôn tìm tòi sáng tạo đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ dạy học và tạo hứng thú cho học sinh khi học môn văn học.
 - Học sinh diễn đạt trôi chảy, lời văn giàu cảm xúc có sức truyền cảm cao đối với người đọc. Đặc biệt một số bài viết của các em sau có chất lượng như: Đinh Hà Anh (6A3), Nguyễn Diệu Linh (6A3), Nguyễn Thị Hải Ninh (6A3), Ngô Lưu Cẩm Ly (6A6), Nguyễn Trần Khánh Linh (6A6), ....
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Dạy học văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, đòi hỏi người giáo viên vừa phải có tâm hồn, tình cảm, hiểu biết, khoa học, nghệ thuật vừa phải tu dưỡng rèn luyện để có được những điều kiện tối thiểu nhất định của người làm công tác văn học. Để giúp học sinh có kỹ năng cảm thụ văn học tốt, người giáo viên văn không những phải học rộng, biết nhiều, hiểu biết sâu sắc về nhà văn, hiểu được ý định của nhà văn nói trong tác phẩm mà còn phải xây dựng cho mình một hệ thống các bài tập phong phú, khoa học, hợp l‎ý. Kết quả đề tài của tôi chỉ là nhỏ bé. Tôi thấy mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong việc tích lũy kiến thức và trau rồi kỹ năng sư phạm để phát huy tích cực hiệu quả bài giảng. Cánh cửa văn chương luôn rộng mở, chỉ có điều làm sao có một chìa khóa tốt nhất để mở cánh cửa đó mà thôi. Biết rằng dạy văn là khó nhưng tôi vẫn luôn mong muốn rằng qua mỗi giờ văn học của mình sẽ thắp lên trong lòng học sinh một ước mơ, một suy nghĩ đẹp. 
 2. Những khuyến nghị
 - Giáo viên có tâm huyết với nghề, dành nhiều thời gian chấm chữa bài cho học sinh.
- Nhà trường có nhiều tài liệu tham khảo trong thư viện hơn và các thiết bị dạy học hiện đại để gây hứng thú cho học sinh.
- Nên áp dụng đề tài này trong các tiết dạy tự chọn môn Ngữ văn để học sinh khắc sâu, mở rộng, nâng cao kiến thức, giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn và tiếp thu tốt về văn bản ở các lớp học và các cấp học tiếp theo.
- Bộ phận chuyên môn của phòng GD – ĐT Hà Đông tiếp tục tổ chức các chuyên đề văn để chúng tôi có cơ hội học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp, rút ra cách dạy phù hợp cho môn Ngữ văn nói chung và môn Ngữ văn 6 nói riêng.
	Trên đây là toàn bộ tiến trình hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng cảm thụ các tác phẩm văn học cho học sinh lớp 6 mà tôi đã thực hiện trong năm học 2015 - 2016. Kinh nghiệm đã giúp các em cảm thụ thơ văn, rèn kĩ năng viết văn được tốt hơn. Các em đã thấy nhiều điều thú vị và yêu thích môn Ngữ văn hơn.Tuy nhiên, với thời gian không nhiều, đề tài không khỏi có những khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự ủng hộ của đồng nghiệp và bỏ qua những thiết sót, rút kinh nghiệm để sáng kiến này của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn! 
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2016
Người thực hiện đề tài
Lê Thị Thu Hường

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa + sách giáo viên 6
2. Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6- Cao Bích Xuân
3. Sách Tiếng việt 9 (cũ)- Lê Cận-Nguyễn Quang Nnh
4. Sách Tiếng việt(Tài liệu bồi dưỡng giáo viên THSP)-Đào Ngọc
5. Bồi dưỡng làm văn hay 6-Th.sĩ Lê Lương Tâm-Thái Quang Vinh
6. Văn hay dành cho học sinh giỏi 6-Thái Quang Vinh-Thảo Bảo My
7. Mở rộng và nâng cao Ngữ văn 6-Thái Quang Vinh-Thảo Bảo My
8. Bồi dưỡng văn năng khiếu 6-Thái Quang Vinh-Thạch Ngọc Hà
9. Tiếng việt nâng cao 6_ Thái Quang Vinh-Ngô Lê Hương Giang.
10 In-ter-net: Sưu tầm tranh ảnh 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_cac_dang_bai_tap_ren_ky_nang_cam_thu_v.docx