Sáng kiến kinh nghiệm Đặc sắc của nhịp điệu Truyện Kiều ở Trường THPT Nguyễn Viết Xuân

Nếu tính thời gian theo cách của Nguyễn Du, có lẽ người Việt phải sống những đêm trống canh dài bằng cả trăm năm. Truyện Kiều không phải keo loan, nhưng đã nối những sợi tơ lòng muôn thế hệ còn bền chặt gấp mấy lần thứ keo thần thoại. Truyện Kiều vô cùng đồ sộ với 3254 câu thơ. Truyện tuyệt vời ở chỗ, đã đi vào lòng người bằng chính cái giai điệu sẵn có của mình – một thứ nhịp điệu vô cùng giàu có, khả năng biểu hiện gần như trùng khớp với tiếng lòng của nhân dân. Tư tưởng có lớn, có hay mà âm điệu tồi, thì câu thơ cũng coi là bỏ. Là một thành tựu nghệ thuật nổi bật của Truyện Kiều, nhịp điệu cần được nghiên cứu sâu sắc hơn, để người đọc tiếp cận gần hơn với những kết luận khoa học chuẩn xác, chứ không phải chỉ dừng lại ở những ấn tượng, những cảm giác – tuy giàu có, nhưng lại vô cùng mơ hồ.

Truyện Kiều đã đi vào lòng người từ lâu, nhưng với một phạm trù khó khăn như thế này, người viết trước nay vẫn sợ rằng nếu như đi sâu nghiên cứu, sẽ làm hỏng đi chính những ấn tượng cảm tính mơ hồ tuyệt diệu mà câu thơ Kiều mang lại. Tuy nhiên, Truyện Kiều lại làm dày thêm vốn kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, hi vọng đưa đến những kết luận ban đầu xác đáng.

Nổi bật nhất trong Truyện Kiều chính là nhịp điệu. Hầu hết các nhà nghiên cứu như Phan Ngọc, Trần Đình Sửu hoặc giáo sư Nguyễn Lộc, học giả Đào Duy Anh, khi xem xét Truyện Kiều đều ít nhiều đề cập đến – có thể gọi thẳng tên nó, chỉ ra đặc điểm và biểu hiện cụ thể. Phan Ngọc đưa ra những lời nhận xét tương đối xác đáng về cách gieo vần, ngắt nhịp, phối thanh, dùng từ... của câu thơ Kiều, từ đó khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Giáo sư Trần Đình Sửu cũng nghiên cứu rất nhiều phương diện nhỏ lẻ của nhịp điệu thơ Kiều nhưng không khái quát thành một chương mục riêng hay thành cơ sở lí thuyết căn bản về nhịp điệu tác phẩm. Bởi vậy sáng kiến này là điểm nhấn để khắc sâu cho học sinh thông qua giảng dạy văn học ở trường THPT.

docx 23 trang Trang Lê 01/04/2025 200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đặc sắc của nhịp điệu Truyện Kiều ở Trường THPT Nguyễn Viết Xuân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đặc sắc của nhịp điệu Truyện Kiều ở Trường THPT Nguyễn Viết Xuân

Sáng kiến kinh nghiệm Đặc sắc của nhịp điệu Truyện Kiều ở Trường THPT Nguyễn Viết Xuân
át có khả năng cắt nhịp cao, nhưng ca dao lại chỉ xuất hiện một số nhịp cơ bản.
- Thêm vào câu lục bát thành câu thất.
- Thêm vào câu lục bát thành câu 9 chữ.
- Biến đổi cả lục và bát.
 Tuy nhiên, các tác giả dân gian đã biến thể ca dao truyền thống của mình bằng cách dựa trên một cái cốt, một cái nền mà thêm vào và bớt đi.
 Như vậy, có thể nói rằng lục bát truyền thống đơn điệu về nhịp điệu và nhịp thơ, trong khi bản thân thể lục bát lại là một trong những thể thơ giàu nhịp điệu , giàu tiềm năng cắt nhịp nhất.
Nguyễn Du chính là người đã khơi dậy mạnh mẽ những tiềm năng phong phú đó.
2.2. Các kiểu cắt nhịp
 Câu 6:
 1/5: Rằng: “Nghe nổi tiếng cầm dài”
 3/3: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”
 2/4: Nàng rằng: “Nghề mọn riêng tay”...
 2/2/2: “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ”
 Câu 8: 
 3/5: “Dột lòng mình cũng nao nao lòng người”
 4/4: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”
 3/3/2: “Đĩa dầu với nước mắt đầy năm canh”
 6/2: “Rộn đường gắn với nỗi xa bời bời”
 2/6: Nàng rằng: “Này thực tinh thành chẳng xa”
 2/4/2: “Thân này đã đến thế này thì thôi”
 2/2/4: “Thân này đã bỏ những ngày ra đi”
2.3. Những kiểu ngăt nhịp – số lượng
- Nhịp 3/3: 80 câu
 3/2: Câu 4/4
 3/5: 12 lần
 1/5: 28 lần
 6/2: 8 lần
 3/3/2: 23 trường hợp
 Nguyễn Du đã nâng những câu thơ lục bát của mình đạt đến mức đa dạng tối đa về nhịp, nhờ đó nó không hề đơn điệu.
2.4. Những cách ngắt nhịp đặc biệt
a, Nhịp 3/3
- Trong ca dao và thơ Nôm, rất hiếm có thể gặp được một nhịp độc đáo như vậy. Lý do là bởi:
. Rất khó làm. Mặc dù khi cắt như vậy, câu lục sẽ được chia đôi rất cân xứng, rất phù hợp với tư duy tạo nhịp của người Việt Nam, nhưng số chữ mỗi vế lại nhẹ. Theo nếp tư duy của người Việt chủ yếu chia câu lục thành những nhịp chẵn.
. Phá vỡ khuôn thanh điệu. Những câu có nhịp 3/3 mà lại đối nhau hai vế, thì rất dễ dẫn đến nguy cơ vỡ khuôn thanh điệu.
- Nhịp 3/3 khá phổ biến trong Truyện Kiều và có tác dụng:
. Tạo sự đối xứng hài hòa cao độ cho tác phẩm.
. Gói gọn những tâm trạng, những cảm xúc.
. Phá vỡ những khuôn khổ thanh điệu bình thường, tạo nên những điểm nhấn.
b, Nhịp 4/4 và 3/3 nói chung
Phan Ngọc nêu ra những nguyên tắc sau của Nguyễn Du khi sử dụng cấu trúc đối:
- Một là: Khi nội dung thơ là kể lại hay miêu tả cuộc sống bình thường thơ Nguyễn Du sử dụng nhịp thơ bình thường. Trái lại, khi bước vào một cuộc sống mới nên thơ, hay một bước ngoặt quan trọng gây nên cảm xúc mãnh liệt thì tác giả sử dụng cấu trúc đối là chủ yếu.
- Hai là: Câu hai vế có đối còn được dùng để miêu tả.
- Ba là: Tính chất hoàn chỉnh của câu đối đem đến cho các nhịp đôi trong thơ 
Nguyễn Du cái vẻ trọn vẹn của một tư tưởng gãy gọn.
Kết luận: 
 Dù với độ dài hơn 3200 câu thơ, Truyện Kiều lại không hề mắc phải sự nhàm tẻ đơn điệu. Trái lại, qua Truyện Kiều nhờ thiên tài Nguyễn Du người ta nhận ra được nhiều khả năng cắt nhịp dồi dào của thơ lục bát, thấy được sức biểu hiện tuyệt vời  cũng như sự uyển chuyển mềm dẻo đến kinh ngạc của thể thơ cổ truyền dân tộc giản dị, mộc mạc và cũng qua muôn vàn cách ngắt nhịp đó.
3. Đối
 Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật đối vô cùng sáng tạo với Truyện Kiều . Tính chất đối trong Truyện Kiều “là một hiện tượng vô cùng đặc biệt, bởi trong truyện Nôm khuyết danh, dân gian không thấy có hình thức tiểu đối”...
 Truyện Kiều có thể chia ra các loại đối sau:
 - Đối vế: Đối trong một vế hoặc trong cả hai vế của câu.
	Lần thâu/ gió mát/ trăng thanh ( 1 vế)
	 Giọt dài/ giọt ngắn/ chén đầy/ chén vơi (2 vế)
 - Đối trong câu
. Đối cân:
	 “Đồ tể nhuyển/ của riêng tây”
 . Đối chỉnh:
	 “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”
 . Các cụm đối không cố định
 . Đối cách từ
 . Đối liên tiếp 
 - Đối trong đoạn:
. Đối hai câu
	 “Người về chiếc bóng năm canh
	 Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
. Đối cách câu
 Đối mang nhiều tác dụng:
 - Tăng cường sức biến hóa của nhịp điệu.
 - Vừa vặn để diễn đạt chân lý.
 - Tạo ra sự đối sánh hoặc sự phân chia hai nửa, hai mặt hiện thực, tạo ra một 
bức tranh sống động.
 - Miêu tả sự hoàn mĩ, vĩnh cửu của thiên nhiên.
 - Đẩy nhanh nhịp độ hành động của nhân vật...
 Kết luận: Nhịp điệu ở cấp độ câu mở ra nhiều cấp độ nhỏ hơn cùng nhiều tiềm năng diễn đạt mới, do đó dồi dào phong phú hơn. Đây chính là cấp độ nhịp điệu cơ bản của Truyện Kiều.
III. Cấp độ tổ chức văn bản tác phẩm
1. Một số môtíp hình ảnh ( trăng, hoa, nước mắt)
Các hình ảnh “trăng”, “hoa”, “nước mắt” xuất hiện trong Truyện Kiều với mật độ lớn
Về số lượng, xin xem lại mục II chương I, tôi không có điều kiện nhắc lại trong phạm vi nhỏ hẹp của báo cáo.
Về môtíp nước mắt tôi đã xét ở chương II nên không nhắc lại. Ở đây chỉ xin lưu ý đến hình ảnh “hoa” và “trăng”.
“Hoa” xuất hiện 137 lần ở 127 câu thơ, ngoài ra số lượng từ chỉ hoa nhưng không có từ “ hoa” là 25 từ/ 20 câu thơ. Hoa đi vào cảm thức miêu tả đời sống và con người của Nguyễn Du rất đậm nét.
Phải gọi là người đẹp thì mới đúng với cảm hứng của Nguyễn Du. Trong quan niệm của Nguyễn Du, người đẹp phải được đặt trong một môi trường đẹp, ngay cả khi Kiều ở lầu xanh thì lầu xanh vẫn là một nơi thơ mộng, thi vị - lầu hồng:
	 “Thiếp danh đưa đến lầu hồng”
Nó vẫn được quét lên một lớp sơn “phong hoa tuyết nguyệt”, cho dù là giả tạo thì vẫn là một cái nền vô cùng trữ tình cho tâm trạng con người nảy sinh – tâm trạng người đẹp.
Với “trăng”, hệ thống khái niệm tương đối linh hoạt biến đổi: trăng, nguyệt, nga, thỏ, vẻ vang, gương, Hằng (chị Hằng, ả Hằng), thềm quế - phách quế, ông tơ, cung Quảng, cung mây... cũng góp phần biểu hiện sự dồi dào của nhịp điệu Truyện Kiều.
2. Một số môtíp hành động và tâm trạng
 Tư thống kê, có thể nói, Truyện Kiều có một tần số lớn các môtíp chia ly, những nỗi buồn, những nỗi nhớ nhung,...
Những lần chia tay, chia ly tạo ra nhịp điệu của tai biến, nhịp điệu của tan tác, nhịp biến động của hiện thực. Nhịp điệu này đã đày đọa Kiều, đã như một ám ảnh với cuộc đời nàng. Những lúc tưởng đã được bình yên thì lại phải chia tay, thậm chí chia ly – là từ biệt.
Sở dĩ tôi chia ra làm hai kiểu: chia tay và chia ly vì muốn nhấn mạnh hơn vào nỗi đau của Kiều và tính chất của sự kiện, biến cố, nếu như chia tay Kim Trọng lần đầu ở hội Thanh Minh hứa hẹn gặp lại, để lại một trời tình ý bâng khuâng thì chia tay để Kim Trọng trở về Liêu Dương đã biến thành cuộc chia ly. Đó là những cuộc chia ly đặc biệt những tâm thế đặc biệt.
Có một điều đáng chú ý là Nguyễn Du đặc biệt trân trọng, nâng niu, “thiên vị” cho Kim – Kiều gặp gỡ rồi chia tay – ba lần chia tay rồi mới chia ly. Lần chia tay nào cũng đẹp, cũng thơ và có nhiều điều để nói. Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết của mình cho hai nhân vật, như một sự đáp đền lưu lạc, nhớ thương suốt 15 năm.
Nói cách khác, cái hay của đoạn trích này là đã nhuộm cả một “màu quan san” lên tâm hồn người đọc, màu sắc của biệt ly, màu của những cảm giác khó tả vấn vương. Đọc nó, tự ta, muốn biến lòng mình thành một rừng phong ngay lập tức, để được màu thu nhuốm lên tất cả bâng khuâng...
Truyện Kiều diễn tả chi tiết và cụ thể một quãng thời gian dài tròn 15 năm của cuộc đời Thúy Kiều – 15 năm lưu lạc, 15 năm xa cách gia đình, người yêu. Nhịp điệu của nỗi nhớ nhung trở đi trở lại trong Truyện Kiều mãi mãi là một nhịp điệu ám ảnh, và đối với cả tâm hồn ta. Cái gốc nơi quê nhà trở nên tha thiết, đau đáu biết bao với tấm lòng thần tử luôn phải sống chìm nổi trong phấp phỏng, đợi chờ và lo âu.
Cái nhịp điệu trăn trở ấy sẽ còn trở lại với những lần Kiều ngồi một mình suy tư mà trong một vài công trình nghiên cứu của tác giả đã có dịp tìm hiểu rất kĩ.
Như vậy, sự tham gia của các môtíp hành động và tâm trạng này có một phần quyết định đến nhịp điệu tác phẩm. Đó là nhịp điệu hình tượng của tác phẩm – một phạm trù lí luận đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
IV. Cấp độ thể loại
1. Vần của thơ lục bát truyền thống (ca dao)
Thơ lục bát gieo vần theo quy tắc: vừa gieo vần chân vừa gieo vần lưng. Tiếng cuối cùng câu lục gieo vần xuống tiếng thứ sáu câu bát, tiếng cuối câu bát gieo vần xuống cuối câu lục tiếp theo.
2. Vần trong Truyện Kiều
Theo Phan Ngọc, quy tắc hiệp vần của Truyện Kiều có thể gói trong những chữ sau:
 1. Chung âm đồng nhất
 2. Cùng dòng
 3. ơ trước i hay u, có thể kết hợp không cùng dòng
Cụ thể:
 Quy tắc 1: Trong Truyện Kiều, khi hiệp vần bao giờ những vần hiệp với nhau cũng phải đồng nhất về chung âm.
 Quy tắc 2: Một nguyên âm khi là thuộc dòng trước ( âm sắc bổng) hay thuộc dòng sau ( âm sắc trẩm ) thì chỉ có thể hiệp vần với một nguyên âm khác cùng dòng.
	Phan Ngọc cho rằng Nguyễn Du đã xuất sắc viết Truyện Kiều 3254 câu mà không hề có một câu thơ nào thay thế được.
Nguyễn Du có một lối gieo vần lục bát độc đáo, vần lưng của câu lục bát lại rơi vào giữa một từ láy âm, hoặc một từ ghép, tách nó ra hai vế, do đó nhịp thơ phá vỡ cấu trúc quen thuộc. Truyện Kiều có khoảng gần 30 trường hợp như thế này:
 Ví dụ:
	 “Chày sương chưa nên cầu Lam
	 Sợ lăn khăn quá ra sầm sờ trăng”
Tác dụng của lối gieo vần này là phá vỡ tính ổn định của nhịp thơ, đem lại, khơi dậy những năng lượng mới của thể thơ lục bát.
Ngoài cách gieo vần, chúng ta có thể xem xét thêm ở cấp độ tác phẩm. Nguyễn Du đã phá vỡ thanh điệu câu lục bát, cho nó một số lượng tối đa vần trắc để tạo ra một nhịp điệu đặc biệt hay, hơn hẳn nhịp điệu thông thường, tạo nên một sự phù hợp thanh điệu phong phú.
Về khả năng áp dụng sáng kiến:
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Tôi đã thực hiện một số nghiên cứu về giá trị nhịp điệu trong tác phẩm Truyện Kiều và áp dụng trong dạy học văn chương ở trường THPT với các lớp cụ thể 10A4, 10D1, 10D4 năm học 2017 - 2018 (năm học trước) tại trường THPT Nguyễn Viết Xuân, kết quả thu được như sau:
 Số học sinh giỏi có hiểu biết sâu sắc về Truyện Kiều tăng lên. Điều này khẳng định sự thành công, mục tiêu ban đầu đề ra. Tuy nhiên, sự nắm bắt bài học của mỗi đối tượng lại có sự khác nhau khá rõ rệt. 
 - Lớp 10A4 là lớp ban A, không phải là lớp đầu cao nên khả năng hiểu bài còn hạn chế, vì vậy chưa đạt được hiệu quả cao. Nhưng bên cạnh đó, số lượng học sinh có sự tư duy lô-gic tăng lên.
 - Lớp 10D1, 10D4 là các lớp ban D, đặc biệt lớp 10D1 là lớp đầu cao nên khả năng nắm bắt bài học nhanh hơn và có những sáng tạo độc đáo. Các em trong lớp còn hăng hái, tích cực thành lập nhóm và đưa ra nhiều vấn đề để thảo luận.
 Thực tế trên giúp tôi nắm bắt được tình hình và có sự thay đổi, điều chỉnh kịp thời để quá trình hiểu bài của học sinh được nhanh hơn.
 Cuối cùng, tôi nghĩ rằng chất lượng và hiệu quả của giờ học văn được đánh giá không chỉ ở những lời kết luận hay hoặc những ấn tượng sâu sắc đọng lại ở học sinh mà điều cần thiết nhất là “con đường” đi đến kết luận là như thế nào. Và điều quan trọng nhất là cần phải có sự tư duy và sáng tạo. 
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
 Nguyễn Du đã mất gần 200 năm nay, nhưng tâm hồn Nguyễn Du vẫn còn tươi nguyên, vẫn còn trẻ mãi với kiệt tác Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều, yêu cái nhịp điệu bên ngoài, cái nhịp điệu trên bề mặt tác phẩm, lại thấy yêu hơn một nhịp điệu bên trong – nhịp điệu của tha thiết, trăn trở, nhịp điệu của một góc suy tư, một trái tim thổn thức, một tiếng nói phẫn uất,... của người nghệ sĩ Nguyễn Du... Hai thứ nhịp điệu luôn quấn quện đan xen tạo nên nhịp điệu chung cho tác phẩm.
Chính vì yêu mến Truyện Kiều và Nguyễn Du, tôi đã bước đầu “động chạm” đến những yếu tố và bề mặt vấn đề nhịp điệu Truyện Kiều, song như một người thợ mỏ đi trong hầm than mà không có đèn, tôi loay hoay chưa tìm ra chất kết dính cho các vấn đề đã lâu. Nhưng tôi mong muốn những cố gắng bước đầu được ghi nhận và vấn đề nhịp điệu Truyện Kiều sẽ càng ngày càng được quan tâm hơn.
 Sáng kiến kinh nghiệm giúp học sinh trong trường phổ thông khám phá ra những giá trị đặc sắc của tác phẩm văn chương nói chung và của nhịp điệu Truyện Kiều nói riêng. Những giá trị ấy mang ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết, bởi lẽ các em sẽ tiếp thu được một hệ thống từ ngữ đa dạng góp phần áp dụng vào quá trình học tập cũng như trong thực tiễn.
II. Một số kinh nghiệm rút ra
- Khi áp dụng sáng kiến cần thực hiện nghiêm túc, có chiều sâu.
- Theo sát học sinh nhằm hỗ trợ và góp ý, hướng dẫn học sinh cách nghiên cứu vấn đề, cách trình bày, khuyến khích các em thảo luận nhóm, phối hợp thật chặt chẽ với giáo viên.
- Biểu dương các học sinh hoặc nhóm học sinh có sự tích cực và sáng tạo.
III. Kiến nghị – đề xuất
 Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi không tham vọng mang đến một bước đột phá mới trong dạy học tác phẩm văn chương, mà chỉ mong muốn được đưa ra những đặc sắc trong Truyện Kiều để nâng cao hiệu quả trong giờ đọc văn. Hi vọng, đề tài này sẽ trở thành tư liệu hữu ích cho giáo viên và học sinh trong các giờ đọc văn.
Kết quả của bước đầu nghiên cứu chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để giúp tôi bổ sung và hoàn thiện công trình nghiên cứu này hơn.
Những thông tin cần được bảo mật: Không.
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Xây dựng kế hoạch thực hiện hợp lý.
- Nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu.
3. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến 
3.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
- Góp phần tích cực trong việc nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh, từ đó các em có thể sử dụng nó một cách điêu luyện.
- Là điểm nhấn để khắc sâu cho học sinh thông qua giảng dạy văn học ở trường THPT.
3.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
- Sáng kiến “Đặc sắc của nhịp điệu Truyện Kiều” được nghiên cứu sâu sắc để người đọc tiếp cận gần hơn với những kết luận khoa học chuẩn xác, chứ không phải chỉ dừng lại ở những ấn tượng, những cảm giác mơ hồ.
- Nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh.
4. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu
Số TT
Tên tổ chức/cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
1
Trường THPT Nguyễn Viết Xuân
Xã Đại Đồng-Huyện Vĩnh Tường-Tỉnh Vĩnh Phúc
Ngữ văn 
2
Hoàng Thị Hằng
GV Trường THPT Nguyễn Viết Xuân
Ngữ văn

Vĩnh Tường, ngày.....tháng......năm......
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
(Ký tên, đóng dấu)

Vĩnh Tường, ngày.....tháng......năm......
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG 
SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Ký tên, đóng dấu)
Vĩnh Tường, ngày.....tháng......năm......
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục Việt Nam (2014). Sách giáo khoa Ngữ văn 10, Nhà xuất bản Giáo dục.
Nguyễn Du; Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải (1995). Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_dac_sac_cua_nhip_dieu_truyen_kieu_o_tr.docx
  • docxBìa SKKN-HH.docx