Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn viết đoạn văn nghị luận cho học sinh Lớp 8
Trong các phân môn của bộ môn Ngữ văn, Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong quá trình học tập và thi cử. Dạy Văn và tiếng Việt đã khó, dạy Tập làm văn lại còn khó hơn . Bởi vì, hơn bất cứ phân môn nào, ở đây giáo viên phải đặc biệt coi trọng chủ thể, đóng vai trò người hướng dẫn, điều chỉnh để hoạt động tư duy và kỹ năng thực hành của học sinh đi đúng hướng, nhằm tiến tới viết (hoặc nói) được văn bản quy định trong chương trình.
Xưa nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu. Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn gìn đạo đức xã hội, đúng như vai trò “Xã hội - nhân văn” của nó. Nếu nói người giáo viên là những “kĩ sư tâm hồn” thì điều đó đúng nhất với các thầy cô giáo dạy Văn. Vì Văn học chính là bộ môn dễ gây xúc động vui buồn tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người. Hơn nữa việc bồi dưỡng tâm hồn cho thế hệ trẻ lại cần thiết trong xu thế hội nhập thế thế giới hiện nay: Hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong xu thế hội nhập việc dạy văn, học văn có những thay đổi nhất định. Sự thay đổi nằm ở cấu trúc chương trình. Cấu trúc chương trình Ngữ văn THCS khẳng định là sáu kiểu văn bản làm trục đồng quy: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và điều hành (hành chính công vụ). Nói như vậy “có nghĩa là phải làm thế nào cho học sinh thành thạo bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; năng lực tiếp nhận về sáu văn bản nói trên”. Mỗi bài đều được bố trí ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn phù hợp với từng kiểu bài, phù hợp với sự tiếp nhận của học sinh. Sự thay đổi còn thể hiện rõ ở phương pháp tiếp cận chương trình mới theo hướng tích hợp và tích cực.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy thời lượng các tiết dành cho việc rèn kĩ năng tạo lập đoạn văn nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng còn hạn chế. Kiến thức về đoạn văn các em được học từ lớp 6, lớp 7 l ớp 8 còn rất ít. Trong khi đó để tạo lập được một văn bản thì trước hết học sinh cần nắm được thành thạo các thao tác, kĩ năng dựng đoạn. Trong quá trình giảng dạy, tuy giáo viên đã giúp học sinh nắm các yêu cầu về đoạn văn nhưng kĩ năng viết đoạn văn nghị luận của học sinh chưa thật thành thạo dẫn đến chất lượng bài văn chưa cao. Học sinh thường viết sơ sài, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ viết được 6 đến 8 dòng là hết, có nhiều em không biết xây dựng luận điểm... Các em còn lúng túng, hành văn chưa mạch lạc, chặt chẽ, viết đoạn văn không theo cấu trúc nhất là đối với đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống. Hơn nữa đây là kĩ năng vô cùng quan trọng đối với HS học văn. Thực trạng ấy làm cho tôi trăn trở, suy nghĩ mong muốn nâng cao chất lượng dạy và học văn nói chung, rèn luyện kĩ năng tạo lập đoạn văn nói riêng cho các em. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Hướng dẫn viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 8”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn viết đoạn văn nghị luận cho học sinh Lớp 8

ú đã khóc thương mẹ, đau đớn khi biết mẹ phải chịu quá nhiều bất hạnh(7). Vì thương mẹ, bé Hồng đã căm tức đến tột cùng những hủ tục đã đày đọa mẹ “ Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”(8). Khi gặp lại mẹ và được ở trong lòng mẹ, trong tình yêu thương tha thiết ngọt ngào, chú thấy mẹ vẫn đẹp như thủa còn sung túc(9). Mọi giác quan như căng mở để tận hưởng niềm hạnh phúc, cảm nhận thấm thía tình mẹ vừa gần gũi, vừa lạ lùng, vừa giản dị thiêng liêng(10). Chú bé Hồng sung sướng đến cực điểm(11). Chú không mảy may nghĩ ngợi gì, không nhớ mẹ chú đã hỏi gì, cả những lời cay độc của bà cô cũng bị chìm đi trong dòng cảm xúc mơn man ấy(12). (Bài viết của học sinh). Với đề trên cần đặt câu chủ đề ở đầu đoạn văn, sắp xếp các ý viết thành đoạn văn đủ số câu, đánh thứ tự các câu trong đoạn, trình bày thành đoạn văn đảm bảo sự liên kết cả nội dung lẫn hình thức. Trong đoạn trên câu 1 là câu mở đoạn, nêu ý chủ đề của cả đoạn văn. Các câu còn lại( từ câu 2 đến câu 10), nêu các ý cụ thể cảm nhận về tình mẫu tử. Câu 4 sử dụng câu ghép,trong đoạn văn có kết hợp yếu tố miêu tả, biểu cảm. Ví dụ 2: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ham mê trò chơi điện tử(1). Một trong những nguyên nhân hàng đầu do trò chơi điện tử rất đa dạng, luôn được cập nhật mới mẻ, thu hút người chơi bởi hình ảnh được đồ họa rất sinh động bắt mắt, âm thanh sôi động, sự cuốn hút bởi cách lập trình trò chơi từ dễ đến khó phù hợp với đối tượng ở nhiều thời điểm tiếp xúc với trò chơi(2). Giá thành để có thể thỏa sức khám phá trong vòng một tiếng đồng hồ chỉ có 3000đ, những khách hàng quen thuộc còn được chủ quán giảm giá(3). Nắm bắt được thị hiếu của các “thượng đế trẻ tuổi” do đó các quán hàng điện tử mọc lên như nấm sau mưa bủa vây trường học(4). Bên cạnh những nguyên nhân đó ta cũng phải kể đến những nguyên nhân khác nữa như: do bạn bẻ rủ rê lôi kéo; do không gian chơi của các thanh thiếu niên ngày càng bị thu hẹp; phương pháp dạy của giáo viên không thu hút học sinh, các sân chơi lôi cuốn hấp dẫn học sinh còn hạn chế; một số gia đình con thiếu quan tâm đến con cái hoặc phương pháp giáo dục chưa phù hợp; chế tài pháp lí chưa đủ sức dăn đe(5). Tất cả các nguyên nhân trên đều quan trọng nhưng có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất đó là do bản thân người chơi không làm chủ được mình bị trò chơi lôi cuốn, do nó phù hợp với tâm lý lứa tuổi: tò mò, thích khám phá, thích khẳng định, ưa mạo hiểm(6). Nếu chúng ta có bản lĩnh dù do nguyên nhân gì đi nữa cũng không thể biến ta thành “nô lệ” của nó(7). Ban đầu là chơi thử nhưng rồi ham và thành nghiện lúc nào không hay dẫn đến việc chốn học để chơi cho thỏa thích xảy ra trong nhiều trường học trên cả nước (8). (Bài viết của học sinh) Bước 5: Đọc lại và sửa chữa.: - Viết xong, người viết cần đọc kiểm tra lại xem đoạn văn đã đáp ứng được những yêu cầu của bài tập về nội dung và hình thức, yếu tố tiếng việt đã gạch chân theo yêu cầu chưa nếu thấy chỗ nào chưa ổn cần chỉnh sửa lại. Các bước trên là những thao tác cần có để viết được một đoạn văn hoàn chỉnh cả nội dung lẫn hình thức, đáp ứng yêu cầu của đề. Bên cạnh kết hợp nhiều thao tác lập luận, đoạn văn nghị luận cần kết hợp các phương thức biểu đạt như biểu cảmtự sự, miêu tả...mà các em đã được học. Tuy nhiên không phải học sinh nào cũng thực hiện đủ các thao tác trên khi làm bài. Điều này giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở để tạo thành thói quen cho học sinh. Đặc biệt để hình thành kĩ năng cho học sinh một cách thành thạo cần tăng cường rèn luyện qua việc thực hành viết đoạn văn cho các em một cách có hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. 2.3 LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN VÀ CÁCH CHUYỂN ĐỔI ĐOẠN VĂN. Bài tập (Đề thi giữa kì II ( Đề số 2)- Ngữ văn 8- Năm học: 2020-2021). Cho đoạn thơ sau: “ Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!” Viết đoạn văn khoảng 10 đến 12 câu theo phép lập luận diễn dịch trình bày cảm nhận của em về tâm trạng người tù- chiến sĩ qua khổ thơ trên , trong đó có sử dụng một câu phủ định. (gạch dưới câu phủ định). ĐOẠN VĂN THAM KHẢO: *Đoạn diễn dịch: Khổ thơ cuối của bài thơ “ Khi cn tu hú”, Tố Hữu đã khắc họa tâm trạng uất ức, bực bội, đau khổ và niềm khao khát tự do của người tù- người chiến sĩ cách mạng (1). Kết thúc bài thơ, tác giả viết: “ Ta nghe hè dậy bên lòng/ Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!/Ngột làm sao, chết uất thôi/ Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!” (2). Khổ thơ đã được tác giả ngắt nhịp bất thường (3). Đó là nhịp: 6/2;3/3, dùng hai câu cảm thán liên tiếp cùng với việc sử dụng các động từ mạnh: đạp tan phòng, chết uất, các thán từ “ôi, thôi, làm sao” (4). Đoạn thơ đã trở thành tiếng kêu phẫn uất của người mất tự do (5). Đó là tâm trạng ngột ngạt, uất ức nhưng không hề bi quan, chán chường, tuyệt vọng trước hoàn cảnh (6). Khổ thơ đầu, Tô Hữu cảm nhận vẻ đẹp mùa hè bằng chính sức mạnh tâm hồn, bằng tình yêu quê hương tha thiết, yêu cuộc sống tự do đến cháy bỏng (7). Các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột.(8). Tất cả để diễn tả tâm trạng u uất, ngột ngạt, bực bội và khát khao sống, khát khao tự do (9). Cùng với tiếng kêu ấy chính là tâm trạng bực bội, ngột ngạt muốn phá tan xiềng xích của người tù cách mạng (10). Niềm khát khao tự do cháy bỏng cử người tù muốn thoát khỏi từ ngục tù trở về với cuộc sống tươi đẹp tự do bên ngoài (11). Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú, phải chăng tiếng kêu của con chim tu hú cuối bài là tiếng kêu thiết tha của tự do của sự sống đầy quyến rũ với người tù cách mạng trẻ tuổi (12). Nhận xét: Đoạn văn trên có 12 câu, được trình bày the o cách diễn dịch. Câu 1 là câu chủ đề. Mang nội dung chính của cả đoạn. Các câu sau đều làm rõ ý của câu chủ đề. Câu 6 là câu phủ định. *Đoạn quy nạp:Từ đoạn văn diễn dịch chúng ta sẽ chuyển đổi thành câu quy nạp. Câu chủ đề ở đầu đoạn ta sẽ chuyển xuống cuối đoạn và có thay đổi một số từ ngữ cho phù hợp. Kết thúc bài thơ “ Khi con tu hú”, Tố Hữu viết: “ Ta nghe hè dậy bên lòng/ Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!/Ngột làm sao, chết uất thôi/ Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!” (1). Khổ thơ được tác giả ngắt nhịp bất thường (2). Đó là nhịp: 6/2;3/3, dùng hai câu cảm thán liên tiếp cùng với việc sử dụng các động từ mạnh: đạp tan phòng, chết uất, các thán từ “ôi, thôi, làm sao” (3). Đoạn thơ đã trở thành tiếng kêu phẫn uất của người mất tự do (4). Đó là tâm trạng ngột ngạt, uất ức nhưng không hề bi quan, chán chường, tuyệt vọng trước hoàn cảnh (5). Khổ thơ đầu, Tô Hữu cảm nhận vẻ đẹp mùa hè bằng chính sức mạnh tâm hồn, bằng tình yêu quê hương tha thiết, yêu cuộc sống tự do đến cháy bỏng (7). Các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột.(7). Tất cả để diễn tả tâm trạng u uất, ngột ngạt, bực bội và khát khao sống, khát khao tự do (8). Cùng với tiếng kêu ấy chính là tâm trạng bực bội, ngột ngạt muốn phá tan xiềng xích của người tù cách mạng (9). Niềm khát khao tự do cháy bỏng cử người tù muốn thoát khỏi từ ngục tù trở về với cuộc sống tươi đẹp tự bên ngoài (10). Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú, phải chăng tiếng kêu của con chim tu hú cuối bài là tiếng kêu thiết tha của tự do của sự sống đầy quyến rũ với người tù cách mạng trẻ tuổi (11).Như vậy, khổ thơ cuối của bài thơ “ Khi cn tu hú”, Tố Hữu đã khắc họa tâm trạng uất ức, bực bội, đau khổ và niềm khao khát tự do của người tù- người chiến sĩ cách mạng (12). Nhận xét: Đoạn văn trên có 12 câu, được trình bày theo cách quy nạp. Câu 12 là câu chốt. Mang nội dung khái quát của cả đoạn. Trước câu chốt có từ ngữ chuyển tiếp ( tác dụng nối): từ như vậy. Các câu trước đó đều hướng đến nội dung của câu chốt. Câu 5 là câu phủ định. Các câu giữ nguyên ( từ câu 2-11). Câu 1 chuyển xuống cuối đoạn (câu 12). *Đoạn tổng- phân- hợp ( dạng một bài văn thu nhỏ). Khổ thơ cuối trong bài thơ “ Khi cn tu hú”, Tố Hữu đã khắc họa tâm trạng uất ức, bực bội, đau khổ và niềm khao khát tự do của người tù- người chiến sĩ cách mạng (1). Kết thúc bài thơ “ Khi con tu hú”, tác giả viết: “ Ta nghe hè dậy bên lòng/ Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!/Ngột làm sao, chết uất thôi/ Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!” (2). Khổ thơ đã được tác giả ngắt nhịp bất thường (3). Đó là nhịp: 6/2;3/3, dùng hai câu cảm thán liên tiếp cùng với việc sử dụng các động từ mạnh: đạp tan phòng, chết uất, các thán từ “ôi, thôi, làm sao” (4). Đoạn thơ đã trở thành tiếng kêu phẫn uất của người mất tự do (5). Đó là tâm trạng ngột ngạt, uất ức nhưng không hề bi quan, chán chường, tuyệt vọng trước hoàn cảnh (6). Khổ thơ đầu, Tô Hữu cảm nhận vẻ đẹp mùa hè bằng chính sức mạnh tâm hồn, bằng tình yêu quê hương tha thiết, yêu cuộc sống tự do đến cháy bỏng (7). Các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột.(8). Tất cả để diễn tả tâm trạng u uất, ngột ngạt, bực bội và khát khao sống, khát khao tự do (9). Cùng với tiếng kêu ấy chính là tâm trạng bực bội, ngột ngạt muốn phá tan xiềng xích của người tù cách mạng (10). Niềm khát khao tự do cháy bỏng cử người tù muốn thoát khỏi từ ngục tù trở về với cuộc sống tươi đẹp tự bên ngoài (11). Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú, phải chăng tiếng kêu của con chim tu hú cuối bài là tiếng kêu thiết tha của tự do của sự sống đầy quyến rũ với người tù cách mạng trẻ tuổi (12). Bằng việc sử dụng thể thơ lục bát, động từ mạnh, câu cảm thán, khổ thơ cuối của bài thơ, Tố Hữu đã khắc họa tâm trạng uất ức, bực bội, đau khổ và niềm khao khát tự do của mình và đó cũng là tâm trạng chung của người chiến sĩ yêu nước trước cách mạng tháng tâm (13). Nhận xét: Chuyển thành đoạn Tổng-phân-hợp Đoạn văn trên có 13 câu, được trình bày theo cách Tổng- phân- hợp. Câu 1 là câu chủ đề và câu 13 là câu chốt. Toàn bộ đoạn văn giữ nguyên, viết thêm câu kết đoạn ( Câu 13). Câu 13 lấy ý từ câu chủ đề của đoạn diễn dịch và thêm ý về nghệ thuât của đoạn thơ, cuối cùng là ý bàn luận, mở rộng . Như vậy, từ một câu chủ đề, giáo viên hướng dẫn HS viết được 3 đoạn văn, nhờ biến đổi linh hoạt trong cách viết đoạn. Tóm lại, qua hệ thống các bài tập và qua việc phát hiện và sửa những lỗi các em hay mắc phải trong khi viết đoạn văn . GV cần hướng dẫn viết đoạn văn. Từ đó các em sẽ có ý thức rèn luyện để viết những đoạn văn nghị luận đúng, hay và tiét kiệm được thời gian. Các em vận dụng tốt cách viết đoạn văn vào quá trình học tập và vào đời sống của mình. 3. KẾT QUẢ THƯC HIÊN CÓ SO SÁNH ĐỐI CHIẾU. Khi áp dụng các giải pháp, biện pháp trên để hướng dẫn học sinh lớp 8 viết đoạn văn nghị luận, năm học 2020 - 2021 tôi thấy học sinh tiến bộ rõ rệt, bài kiểm tra sau điểm cao hơn bài kiểm tra trước, kết quả được nâng cao. Như vậy, để HS biết viết đúng, viết hay đoạn văn nghị luận là rất quan trọng. Việc viết tốt đoạn văn theo cấu trúc được rèn luyện tốt ở lớp 8 là tiền đề để học sinh đạt kết quả cao trong kì thi vào lớp 10 năm tới. Sau một thời gian kiên trì rèn luyện, tôi yêu cầu học sinh viết đoạn văn cho đề bài sau: Đề bài: Viết đoạn văn khoảng 10 đến 12 câu theo phép lập luận diễn dịch trình bày cảm nhận của em về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi bình minh tuyệt đẹp trong bài thơ “ Quê hương” của Tế Hanh, trong đó có sử dụng câu cảm thán (gạch chân dưới câu cảm thán). (Thời gian 15 phút). Sau khi chấm bài, tôi có kết quả như sau: Kết quả Lớp Tổng Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu số HS Số lượng % Số lượng % 8A,B,D 131 96 73 35 27 So với kết quả khi chưa thực hiện đề tài, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ HS viét đoạn văn đạt yêu cầu tăng lên, tỉ lệ HS chưa đạt yêu cầu giảm dáng kể. Ngay từ dầu năm học tôi đã áp dụng đề tài: “ Hướng dẫn viết đoạn văn nghị luận cho HS lớp 8”. Kết quả so sánh đối chứng: TSHS Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài 131 Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu SL % SL % SL % SL % 62 47,3 69 52,7 96 73 35 27 Nhìn vào kết quả trên, ta nhận thấy: so với khảo sát chất lượng ở đầu năm về số học HS đạt yêu cầu viết đoạn văn là: 62/131 em (chiếm 47,3 %), số HS chưa đạt yêu cầu là 69/131 em (52,7%). Sau một năm thực hiện đề tài thì số HS viết đạn văn đạt yêu cầu đã tăng lên đáng mừng từ 47,3 % tăng lên 73%. Số Hs chưa đạt yêu cầu giảm rõ rệt: từ 52,7 xuống còn 27%. Kết quả kì thi Olympic môn Ngữ văn 8 do huyện tổ chức, tôi đã có hai em HS được giải khuyến khích môn Ngữ văn 8. Đó là em: Chu Thị Phương Ly và em Phùng Thị Mai Trang. 4. KẾT LUẬN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn nghị luận, không phải là một nội dung hoàn toàn mới trong chương trình Ngữ Văn THCS. Tuy nhiên để học sinh có được kĩ năng viết đoạn văn đúng, hay thì người thầy, người cô phải trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản, có kế hoạch xây dựng chương trình, cụ thể từ dễ đến khó. Bên cạnh đó giáo viên khai thác tối đa việc tự học của học sinh, tìm tòi thêm các đề ở sách nâng cao, tập trung vào thực hành, vận dụng hiệu quả kiến thức cơ bản nhằm phát triển trí tuệ của người học và nâng cao chất lượng dạy học. Nhưng các kĩ năng dựng đoạn đã thực hiện trong đề tài cũng đã góp phần nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận, nhất là nghị luận văn học giúp các em có khả năng lập luận mạch lạc, chặt chẽ, thuyết phục khi trình bày một vấn đề, một ý tưởng. 5. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Là một giáo viên dạy Ngữ văn, tôi nhận thấy vai trò của đoạn văn trong dạy- học văn là rất quan trọng. Đặc biệt đối với HS lớp 8. Các em học tốt ở lớp 8 sẽ là tiền đề để các em học lớp 9 và thi vào lớp 10. Vậy, tôi rất mong Phòng giáo dục sẽ mở nhiều chuyên đề về Ngữ văn, đặc biệt là những kĩ năng, những công thức, những mẹo khi viết đoạn văn, đặc biệt là đoạn văn nghị luận để đồng nghiệp chúng tôi có cơ hội được học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chât lượng giờ dạy Văn. Trên đây là những kinh nghiệm của tôi qua việc thực hiện đề tài mà tôi áp đã áp dụng tại lớp 8A,B,D Trường THCS Đồng Thái mà tôi rất muốn được chia sẻ cùng đồng nghiệp. Tuy nhiên, đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ quan của bản thân và mới áp dụng trong phạm vi hẹp. Rất mong sự đóng góp ý kiến, trao đổi, bổ sung của bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến hoàn thiện hơn góp phần nâng cao kĩ năng viết văn, ham muốn học văn cho các em. Tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học cấp trên và bạn bè đồng nghiệp. Đề tài này là do tôi nghiên cứu và tự viết. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Đồng Thái, ngày 15 tháng 5 năm2021 Tác giả Nguyễn Thị Chín MỤC LỤC 5. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ văn8 tập 1,2 - NXB Giáo dục. 2. Sách giáo viên Ngữ văn 8 tập 1,2 - NXB Giáo dục. 3. Thiết kế bài giảng Ngữ văn8 tập - NXB Hà Nội. 4. Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn 8- NXB Giáo dục. 5. Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn THCS quyển 4- NXB Giáo dục 6. Ngữ văn 8 nâng cao- NXB Giáo dục.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_viet_doan_van_nghi_luan_cho.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn viết đoạn văn nghị luận cho học sinh Lớp 8.pdf