Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn
Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi xét cho cùng, công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân. Cho nên việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực của người học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Và để đáp ứng yêu cầu trên, hiện nay trong dạy học có nhiều phương pháp và hình thức dạy học đã được nhiều giáo viên áp dụng nhằm phát triển tư duy người học. Trong số đó, hình thức tổ chức học tập theo nhóm đã và đang được vận dụng một cách hiệu quả. Như chúng ta đã biết, trong học tập thì không phải bất cứ một nhiệm vụ học tập nào cũng có thể được hoàn thành do những hoạt động thuần tuý của cá nhân. Có những câu hỏi, bài tập, những vấn đề đặt ra khó và phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa cá nhân mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, bên cạnh hình thức học tập cá nhân, cần tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm. Hình thức thảo luận nhóm có nhiều thế mạnh như:
Góp phần rèn luyện tinh thần tự lực của học sinh; giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp; tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau; phát huy vai trò trách nhiệm, tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ, tin tưởng nhau trong học tập
Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giúp các em học sinh nhút nhát, khả năng diễn đạt kém... có điều kiện rèn luyện, tập dượt, từ đó tự khẳng định bản thân. Tạo điều kiện để từng học sinh phát huy hết khả năng của mình, giúp cho việc phân hoá trong hoạt động dạy học được thuận lợi. Làm thế nào để giờ học thảo luận nhóm đạt hiệu quả, tránh hiện tượng hình thức, bản thân tôi đã suy nghĩ và đã thực hiện thành công qua đề tài: “Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn”. Trong dạy học việc truyền thụ được kiến thức giúp cho người học lĩnh hội được kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo, thì người giáo viên cũng phải tìm tòi, khám phá ra mọi kỹ năng nhằm giúp cho việc dạy học đạt kết quả cao. Vì vậy trong quá trình thực tế giảng dạy nhiều năm với sự trăn trở tôi đã đi đến chọn đề tài sáng kiến “Kỹ năng dạy học theo nhóm” là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học hợp tác nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm việc với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học môn Ngữ Văn

hóm đòi hỏi sự trao đổi qua lại tích cực giữa các học sinh độc lập trong nhóm. Điều đó được thực hiện khi các thành viên nhóm nhìn thấy nhau trong trao đổi. Tương tác mặt đối mặt, có tác động tích cực đối với học sinh như: - Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao thiệp chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và đáp án giải quyết vấn đề, tăng cường các kĩ năng tỏ thái độ, biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức: lời nói, ánh mắt, cử chỉ, khích lệ mọi thành viên tham gia, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau. - Tầm quan trọng của việc hoạt động nhóm: Là giúp học sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ hội trao đổi với các bạn khác để cùng học, khám phá và phát triển tư duy. - Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được phát triển. - Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời và chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau. - Thông qua hoạt động nhóm, GV có thể hỗ trợ các đối tượng HS theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp. - Học sinh được làm việc nhiều dần dần tự tin hơn. Điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết trên thành các hoạt động cụ thể, mang tính thường xuyên. Đó chính là biết và thành thạo công việc. Mỗi thành viên trong nhóm có trách nhiệm cùng mọi người trong nhóm đạt được mục đích đề ra, để làm điều đó một số yêu cầu cụ thể: + Phải xác định được mục đích chung của nhóm. + Xây dựng các bước cụ thể để đạt được mục đích. + Mỗi thành viên xác định được quyền hạn, vai trò lợi ích của nhóm và cá nhân và mối liên hệ giữa các yếu tố này. + Mỗi thành viên phải có kiến thức cơ bản và kỹ năng cần thiết. + Mỗi thành viên tự hào và thỏa mãn với thành tích đạt được của nhóm. Các thành viên lắng nghe và khai thác các ý kiến đóng góp, đặc biệt các ý kiến khác lạ (mặt tích cực ý kiến này thường giúp nhóm dễ dàng vượt qua trở ngại). Các thành viên ý thức xây dựng nhóm làm việc ngày càng hiệu quả. Vai trò và nhiệm vụ của mỗi thành viên được thay đổi phù hợp với các vấn đề phải giải quyết. Sự đóng góp của cá nhân (dù nhỏ) được các thành viên khác và nhóm công nhận. Các thành viên phải tôn trọng và giúp đỡ nhau tạo môi trường làm việc thân thiện và cởi mở. 3. Nâng cao trách nhiệm cá nhân: Nhóm hợp tác được tổ chức sao cho từng thành viên trong nhóm không thể trốn tránh công việc, hoặc trách nhiệm học tập. Mọi thành viên đều phải học, đóng góp phần mình vào công việc chung và thành công của nhóm. Mỗi thành viên thực hiện một vai trò nhất định. Các vai trò ấy được luân phiên thường xuyên trong các nội dung hoạt động khác nhau (nhóm trưởng, thư kí, báo cáo viên ...). Mỗi thành viên đều hiểu rằng không thể dựa vào công việc của người khác. 4. Sử dụng kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội: Học sinh phải thể hiện được các kĩ năng làm việc trong nhóm nhỏ. Đó là các kĩ năng: - Kĩ năng hình thành nhóm như: tham gia ngay vào hoạt động nhóm, không rời khỏi nhóm. - Kĩ năng giao tiếp như: biết chờ đợi đến lượt, tóm tắt và xử lí thông điệp. - Kĩ năng xây dựng niềm tin như bày tỏ sự ủng hộ qua ánh mắt, nụ cười, yêu cầu giải thích, giúp đỡ và sẵn sàng giải thích giúp bạn. - Kĩ năng giải quyết mối bất đồng như: kìm chế bực tức, không làm xúc phạm khi phản đối. 5. Rút kinh nghiệm tương tác nhóm: Sau mỗi hoạt động hợp tác, học sinh phải đánh giá quá trình hoạt động của mỗi thành viên nhóm như những mặt tốt trong hoạt động chung và những đóng góp cá nhân nổi bật cần được phát huy, những mặt cần thay đổi, cải thiện để hoạt động của nhóm có hiệu quả hơn. Điều này, giúp học sinh học được kĩ năng hợp tác với người khác một cách có hiệu quả. Tóm lại, dạy học theo phương thức hợp tác nhóm là giáo viên tổ chức cho học sinh đối diện nhau trong nhóm học tập cùng trao đổi, chia sẻ, tìm tòi những kinh nghiệm, những kiến thức hay giải quyết nhiệm vụ học tập được giao. Trong khi đó, giáo viên bao quát, theo dõi hoạt động của học sinh và sẵn sàng làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các nhóm khi cần thiết Để thực hiện dạy học hợp tác nhóm trong bài học cụ thể, tôi đã tiến hành như sau: Xác định các kĩ năng hợp tác và nội dung hoạt động nhóm: Có hai loại mục tiêu tôi cần xác định rõ trước khi dạy một bài. + Một là, mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ được xác định ở mức độ phù hợp với học sinh và phù hợp với yêu cầu chung của bài học. + Hai là, mục tiêu về kĩ năng hợp tác của học sinh với nhau: được thể hiện bằng các kĩ năng hợp tác cụ thể, yêu cầu học sinh qua bài học. Căn cứ vào khả năng hợp tác nhóm của học sinh tôi xác định các kĩ năng cần rèn cho các em. Trong một bài học, tuỳ theo nội dung môn học, tôi xác định nội dung vấn đề cho hoạt động hợp tác nhóm. Vấn đề tôi đưa ra cho học sinh hoạt động học hợp tác nhóm luôn đảm bảo: Nội dung vấn đề phải có độ khó, phức tạp nhất định sao cho nhóm học sinh phải cùng hợp tác với nhau mới có thể giải quyết được. Nội dung vấn đề cho hoạt động nhóm, chỉ có thể giải quyết được khi các thành viên nhóm phải vận dụng những kinh nghiệm của bản thân. Nội dung vấn đề trong hoạt động nhóm cho học sinh giải quyết tôi đều dành thời gian hợp lí để học sinh thảo luận. Các vấn đề đưa ra cho học hợp tác nhóm được tôi biên soạn trong phiếu học tập hoặc viết bảng phụ. Các phiếu được biên soạn đơn giản, rõ mục đích, có tính trực quan cao, không rườm rà, gây khó hiểu, mất thời gian 5.2. Trình tự làm việc theo nhóm. *Nhóm trưởng - Chọn trưởng nhóm: Có nên nhất thiết là bàn trưởng (đôi khi là tổ trưởng), nói hay nhất, biết tất cả vấn đề thảo luận, có quyền lực cao nhất. Phải có các tố chất: Am hiểu các vấn đề trong những nét cơ bản và khái quát Biết tâm lý nhóm và điều động nhóm có khoa học Xác nhận được tiềm năng của nhóm, khơi dậy được tiềm năng đó Dân chủ - Các công việc của nhóm trưởng Chuẩn bị: Nội dung ( xác định mục tiêu, chuẩn bị dữ kiện, tư liệu, đặt vấn đề với một số cá nhân tích cực để họ là hạt nhân trong buổi họp). Sắp xếp chỗ ngồi: Nguyên tắc tất cả nhìn thấy và nghe được nhau Mở đầu buổi thảo luận nếu chưa quen thì giới thiệu tất cả các thành viên (nên tự giới thiệu) Cùng nhóm viên xác định mục tiêu, chương trình nghị sự, thời gian dành cho từng phần và toàn bộ cuộc thảo luận, cách thức diễn đạt, hành vi cư xử của các thành viên trong nhóm. Dành thời gian ngắn (5 -7 phút) nhóm trưởng đưa ra vấn đề (đơn giản ) tạo sự chú ý của thành viên trong nhóm: vấn đề có thể dưới dạng một tình huống, tốt nhất nên thời sự và liên quan đến chủ đề phải thảo luận, tạo điều kiện để các thành viên cùng tham gia ý kiến. Thái độ ân cần, quan tâm từng thành viên Trong quá trình thảo luận: Điều động sự tham gia tích cực và đồng đều. Thái độ lắng nghe, khách quan. Khuyến khích người rụt rè. Khéo léo chặn bớt người nói nhiều, khuynh hướng lấn át người khác. Quan sát sự tham gia của các thành viên (lặng thinh do đồng tình hay dửng dưng hay lờ đi, hay chống đối, cười hứng thú hay châm biếm, thụ động). Biết khai thác nội dung, ví dụ: Khi dạy bài “ Tức nước vì bê ” - Ngữ văn 8: GV có thể cho học sinh tranh luận về sự thay đổi thái độ của chị Dậu. Cuộc tranh luận có thể bắt đầu từ những từ then chốt có liên quan đến quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu trong đoạn trích và có thể gây tranh luậ n về cách nhìn nhận hành động của chị Dậu khi đánh lại cai lệ và người nhà lý trưởng: (GV viết các từ ngữ đó thành cột vào bảng phụ). GV dành cho học sinh thị 3 đến 5 phút để học sinh suy nghĩ lựa chọn ý kiến, chuẩn bị lý lẽ cho quyết định lựa chọn của mình: ? Em có nhận xét gì về thái độ của chị Dậu khi tên cai lệ xuất hiện trong nhà chị để đòi tiền nộp sưu? (Thay đổi: Từ chỗ van xin đến liều mạng cự lại lúc đầu là bằng lý lẽ sau đó là bằng vũ lực)? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu trước hành động của tên cai lệ và người nhà lý trưởng chứng tỏ điều gì ở người phụ nữ nông thôn ấy? Giáo viên nêu vấn đề : + Đây là người đàn bà đanh đá, ghê gớm? + Đây là người phụ nữ nông dân thuần hậu, cam tâm chịu đựng song khi bị đẩy tới bước đường cùng tự phát vùng dậy đấu tranh? + Chống lại tên cai lệ và người nhà lý trưởng là thể hiện tình yêu thương chồng, kiên quyết bảo vệ chồng khi bị đau ốm, không cho kẻ khác hành hạ? - Giáo viên giám sát tranh luận của HS, chuẩn bị một vài câu hỏi cho từng nhó m theo nh÷ng ý các em nêu ra để tất cả học sinh đều có thể tham gia tranh luận. Từ đó giúp các em chốt lại vấn đề: Sự thay đổi thái độ của chị Dậu liên quan mật thiết tới quá trình diễ n biến tâm lý của chị. Từ đó toát lên vẻ đẹp tiềm ẩn của người phụ nữ nông dân giàu đức hy sinh. Hành động của chị tuy là bột phát song khẳng định chân lý: “ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”. Chị hiện lên như một ánh sáng chói loà trong màn đêm của “Tắt đèn” Bài tập nhóm rất đa dạng có thể là viết một bài báo về một sự kiện trong câu chuyện, một lời thoại và một đoạn trích trong bài học. Ví dụ: GV có thể tổ chức bài tập nhóm để học sinh có ý kiến với truyện ngắn “Lão Hạc” (Ngữ văn 8 tập 1) *Vấn đề thảo luận: Cái chết của Lão Hạc gợi cho em suy nghĩ gì về xã hội thực dân nửa phong kiến thời bấy giờ ? Giáo viên: + Chia lớp thành 4 nhóm (theo đơn vị tổ). Mỗi nhóm có một nhó m trưởng, một thư ký. + Định hướng cho các nhóm thảo luận theo hướng sau: ? Nếu không tự tử lão Hạc sẽ sống kiếp như thế nào ? (Tổ 1) ? Cái chết của lão Hạc có phù hợp với diễn biến tâm lý, tính cách của lão Hạc hay không ? (Tổ 2) ? Tại sao Nam Cao không giải quyết cái chết của lão Hạc bằng cách khác ? (Tổ 3) ? Thông qua cái chết của lão Hạc tác giả muốn nói điều gì? (Tổ 4) - Thời gian để các nhóm thảo luận 2 phút - Các tổ cử đại diện, trình bày ý kiến của mình - Các thành viên của nhóm khác đặt câu hỏi những chỗ mình chưa hiểu để đại diện của nhóm kia trả lời (nếu không trả lời được các thành viên trong nhóm khác có thể bổ xung). - GV nhận xét rút ra kết luận về cái chết của lão Hạc. Với lão Hạc, tác giả đặt nhân cách con người bên bờ vực của hoàn cảnh khốn cùng để thử thách suy nghiệm. Sự lựa chọn cái chết trong đau đớn tuyệt vọng của lão Hạc đem tới cho người đọc một nỗi đau đớn xót xa, thương cảm, nhưng đồng thời nhen nhóm trong ta niềm tin ở cái đẹp, cái thiện, ở nhân cách con người. Đói nghèo không làm cho lão Hạc thay đổi nhân cách. Nhưng để giữ gìn nhân cách lão Hạc đã phải “sống mòn” chết thả m cả về thể xác lẫn tinh thần. Thông qua cái chết thả m khốc, tất yếu của lão Hạc, Nam Cao đã phơi bày ra trước mắt người đọc số phận của những người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tá m, đồng thời lên tiếng tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng. Cái kiếp của họ như chính lão Hạc đã nói một cách chua chát là không bằng kiếp chó. Lão Hạc muốn lương thiện thì cũng phảỉ chết như Chí Phèo muốn làm người lương thiện phải tự đâm vào ngực mình. 3. Bài tập sáng tạo (viết, vẽ) thường là bài giao cho cá nhân nhưng cũng có thể đem lại kết quả đáng ngạc nhiên khi làm việc theo nhó m. Ví d ụ 1 : Sau khi đọc hiểu văn bản “Chiếc lá cuối cùng” của Ô-Hen-ri, học sinh có thể làm việc theo nhóm: vẽ và kể lại một tình tiết có ấn tượng trong tác phẩm. 5.3. Cách chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm: Kiểu nhóm: Nhóm đặt tên các loài hoa Nhóm theo biểu tượng Nhóm theo màu Nhóm theo đếm số CÁC CÁCH CHIA NHÓM Nhóm theo Nhóm theo trình độ Nhóm cặp Nhóm tương trợ Nhóm theo tháng sinh nhật Nhóm ghép hình Bàn trên quay xuống bàn dưới Nhóm theo sở thích Nhóm trưởng: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ tổ chức, điều hành nhóm làm việc đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. Thư kí: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ ghi chép, tổng hợp ý kiến, đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao của nhóm. Báo cáo viên Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình và giải trình ý kiến thắc mắc trước lớp và GV đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao qua từng hoạt động. Các thành viên Trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao. *Nguyên tắc làm việc trong nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng, ghi chép trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép, người nói phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo đa số. Có nhận xét rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động Một nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu của nhóm gồm: - Một nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức, điều hành mọi hoạt động của nhóm, nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu lên hoặc do giáo viên chỉ định. - Một nhóm phó (nếu quy mô nhóm lớn) để thay thế, hỗ trợ nhóm trưởng khi nhóm trưởng vắng mặt; - Một thư ký để ghi chép nội dung, diễn biến các cuộc họp, thảo luận của nhóm, thư ký có thể được thay đổi theo từng cuộc họp nhóm hoặc cố định từ đầu đến cuối. Tôi xin đưa ra hai mô hình để so sánh về việc này và để các bạn đồng nghiệp lựa chọn. Mô hình 1: Theo cách sắp xếp truyền thống. Bảng Mô hình 2 : Sắp xếp theo quan điểm dạy học mới. Bảng Mô hình 2 hiện nay được rất nhiều giáo viên tại trường tôi chọn để sắp xếp cho lớp học của mình. C. PHẦN THỨ BA: KẾT QUẢ Kết quả dạy học áp dụng tổ chức dạy học theo nhóm sau khi dạy xong môn Ngữ Văn cụ thể như sau: *Kết quả xếp loại học lực lớp 6A2 năm học 2015 - 2016: Thời điểm TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa HKI 37 12 32,4% 15 40,6% 8 21,6% 2 5,4% Giữa HKII 38 17 44,7% 16 42,2% 4 10,5% 1 2,6% *Kết quả xếp loại học lực lớp 7A1 năm học 2015 - 2016: Thời điểm TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL Giữa HKI 31 12 38,7% 14 45,2% 5 16,1% 0 % Giữa HKII 31 16 51,6% 12 38,7% 3 9,7% 0 % D. PHẦN THỨ TƯ: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Tóm lược giải pháp. - Để có được kĩ năng tổ chức hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và rèn luyện. - Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy học. - Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm trong quá trình dạy học. - Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức nhóm. - Rèn luyện cách chia nhóm thông qua các tiết học một cách thường xuyên. - Chuẩn bị tốt cho mình bộ đồ dùng phục vụ cho việc học nhóm của HS. Hoạt động nhóm có thể áp dụng được cho tất cả các tiết học ở tất cả các khối lớp ở cấp Tiểu học, đặc biệt là mô hình trường học mới ENVN. Nội dung áp dụng: Các đơn vị kiến thức rộng, nhiều phương án trả lời (yêu cầu mở). 2. Kiến nghị: Để hoạt động nhóm trở thành hoạt động dạy học thường xuyên, có chất lượng, mang lại hiệu quả cao cho công tác dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục. Với những kinh nghiệm và những trăn trở của bản thân đã trình bày ở trong đề tài. Tôi rất mong muốn nhận được sự đóng góp của tất cả các bạn đồng nghiệp, các nhà chuyên môn, các nhà quản lí GD để chuyên đề này hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của BGH Hà Nội , ngày 21 tháng 3 năm 2016
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_to_chuc_hinh_thuc_hop_tac.doc