Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giải giúp học sinh Lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận Văn học

Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ cũng bề bộn và vô cùng phong phú. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng cuộc sống đã được nhà văn chọn lọc phản ánh. Vì vậy môn văn trong nhà trường có một vị trí rất quan trọng: Nó là vũ khí thanh tao đắc lực có tác dụng sâu sắc đến tâm hồn tình cảm của con người, nó bồi đắp cho con người trở nên trong sáng, phong phú và sâu sắc hơn. M.Goóc-ki nói: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở con người khát vọng hướng tới chân lý”.

Dạy Văn nói chung, dạy phân môn Tập làm văn kiểu bài nghị luận về tác phẩm văn học (phần thơ) nói riêng ở khối lớp 9 trong trường Trung học cơ sở là dạy cho các em học sinh lứa tuổi 14, 15 - lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, năng động và nhạy cảm biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ thuật. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm để biết cách làm bài.

Hiện nay, học sinh khi làm tập làm văn, đa số các em thường không tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường lệch lạc kiểu bài, nhầm lẫn các dạng đề. Đề bài nghị luận về đoạn thơ , bài thơ thường có các dạng đề mệnh lệnh và “mở”. Các mệnh lệnh thường gặp là “suy nghĩ” “cảm nhận của em”, “phân tích” về đoạn thơ, bài thơ...

Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, học sinh mới chỉ nắm vững các yêu cầu, cách làm bài nghị luận đoạn thơ, bài thơ trên lý thuyết, nhưng khi bắt tay vào làm bài, viết bài nghị luận đoạn thơ, bài thơ thì các em chưa thật thành thạo, còn lúng túng, hành văn chưa mạch lạc, bố cục chưa rõ ràng, nhất là đối với đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống. Vì vậy, cần phải chú trọng giúp học sinh và định hướng cách làm bài cho học sinh, giúp học sinh biết cách làm bài, nhằm từng bước nâng cao chất lượng của bài viết và hiệu quả của việc giáo dục, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục hiện nay.

Xuất phát từ tình hình trên và thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn cho học sinh làm kiểu bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong dạy học ngữ văn là rất cần thiết, bản thân lại trực tiếp giảng dạy lớp 9 nên tôi xin nêu một vài kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy với mục đích trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp qua sáng kiến: “Một số giải pháp giải giúp học sinh lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận văn học”.

doc 13 trang Trang Lê 12/08/2025 180
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giải giúp học sinh Lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận Văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giải giúp học sinh Lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận Văn học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giải giúp học sinh Lớp 9 làm tốt kiểu bài nghị luận Văn học
m .
- Dựa vào bố cục bài thơ để tìm hệ thống luận điểm, luận cứ.
 (Người viết dựa vào việc phân tích giá trị, nét đặc sắc của bài thơ, đoạn thơ để đánh giá tổng quát về nội dung bình luận, phân tích).
Kết bài: Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
(Và đưa ra ý kiến của riêng mình về giá trị bài thơ). 
Ví dụ đề bài: Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương (Sgk Ngữ văn 9 trang 80).
Với yêu cầu của đề bài này, giáo viên tổ chức cho các em lập dàn bài cho bài văn. Mỗi bài thơ phải dành thời gian để lập dàn ý chi tiết. Trước hết cho các em đặt câu hỏi tìm ý cho phần mở bài:
Mở bài:
+ Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Viễn Phương? Tìm dấu ấn về nhà thơ Viễn Phương.
+ Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào? (Khi lăng Bác vừa xây dựng xong và nhà thơ lần đầu tiên ra thăm lăng Bác?)
+ Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của bài thơ là gì?
* Sau đó giáo viên tổ chức cho các em tìm luận điểm, luận cứ trong phần thân bài. Mỗi bài thơ lại có nhiều cách trình bày luận điểm. Tùy từng yêu cầu của đề bài mà giáo viên gợi cho học sinh tìm luận điểm. Khi tìm luận điểm phải hướng dẫn các em tìm ý bằng cách đặt câu hỏi:
Thân bài:
Thứ nhất, dựa vào vấn đề đã nêu nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc của bài thơ, hoặc nhan đề ở phần mở bài mà các em đã tìm ý được để triển khai luận điểm. 
Thứ hai, nếu vấn đề nghị luận là phân tích nội dung cả bài thơ thì giáo viên cho học sinh dựa vào bố cục bài thơ để tìm ý lớn. Vậy bố cục của bài thơ gồm mấy phần? Hãy nêu nội dung khái quát của từng phần? Khi tìm ra nội dung khái quát từng bài có nghĩa là các em đã tìm ra các luận điểm. Có trường hợp bài thơ có dấu ấn đặc biệt thì giáo viên phải cho học sinh phân tích và bình luận để thấy được nét phong cách độc đáo của nhà thơ.
- Luận điểm 1: Cảm xúc ngợi ca của tác giả trước cảnh vật bên ngoài lăng (khổ 1)
+ Luận cứ 1: Câu thơ thứ nhất “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chứa đậm chất tự sự, nó như một lời kể, lời thông báo với Bác. Tác giả xưng hô “con” với “Bác” diễn tả tình cảm của nhân dân với lãnh tụ gần gũi, thân mật như con với cha. Từ “thăm” làm giảm đi nỗi đau mất mát vô cùng to lớn trước sự ra đi của Người.)
+ Luận cứ 2: Hình ảnh tả thực hàng tre “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” trong sương sớm, mờ ảo, lung linh trước lăng Bác, một hình ảnh quen thuộc nơi làng quê về đây hội tụ.
+ Luận cứ 3: Hình ảnh ẩn dụ “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam/Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” tượng trưng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước.
- Luận điểm 2: Cảm xúc của tác giả trước dòng người vào lăng viếng Bác (khổ thơ thứ 2)
- Luận điểm 3: Cảm xúc đau xót nghẹn ngào khi tác giả đứng trong lăng viếng Bác (khổ thơ thứ 3)
- Luận điểm 4: Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi phải trở về miền Nam (khổ cuối)
- Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật: giọng thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào, thành kính, nhịp chậm, lời thơ giản dị, thể thơ 8 chữdiễn tả sự trang nghiêm, thành kính trong tâm trạng nhà thơ. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp cả hình ảnh thực và ẩn dụ có ý nghĩa khái quát cao.
Cuối cùng, giáo viên tổ chức cho học sinh làm phần kết bài. 
Kết bài: 
Giáo viên cho học sinh đặt câu hỏi và trả lời: phần kết bài của kiểu bài này có nhiệm vụ gì? Hãy liên hệ bản thân? (đánh giá, khẳng định giá trị của bài thơ). 
Rút ra bài học cho bản thân hoặc liên hệ mở rộng vấn đề khơi gợi suy nghĩ nơi người đọc.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết đoạn và liên kết đoạn
Khi thực hiện bước này, nhất thiết người viết phải bám sát vào dàn bài đã lập để triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng. Từ dàn ý đã có sẵn, các em có thể viết thành đoạn, thành bài. Tôi hướng dẫn các em viết từng đoạn 
tiêu biểu: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài.
1. Đoạn mở bài:
a. Nguyên tắc mở bài:
- Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài.
Chỉ được phép nêu những ý khái quát, không được lấn sang phần thân bài: giảng giải, minh hoạ hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài.
b. Cách mở bài: Có rất nhiều cách mở bài. Tuỳ dụng ý của người làm mà có thể vận dụng một trong những cách sau đây: 
Mở bài trực tiếp: Là đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận, giới thiệu luôn bài thơ.
Mở bài gián tiếp: Là cách dẫn dắt vấn đề bằng những cảm xúc suy nghĩ rồi từ đó giới thiệu đối tượng nghị luận.
Sau đây là một số cách mở bài tham khảo cho đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.
* Cách trực tiếp: 
Ví dụ 1: Mở bài bằng cách giới thiệu tác giả tác phẩm
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, ông sinh năm 1930 mất năm 1980 ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thanh Hải là người có công đầu trong việc xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời vào tháng 11 năm 1980 khi ông đang nằm trên giường bệnh. Tác phẩm đã thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ dâng hiến cho đời.
Ví dụ 2: Giới thiệu tác phẩm trước, tác giả sau
Cứ nhắc đến Mùa xuân nho nhỏ là người ta nhớ ngay đến nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ chính là tiếng lòng là tâm nguyện thiết tha của tác giả trước khi trở về với cát bụi. Bằng âm hưởng dịu dàng sâu lắng bài thơ không chỉ là sức sống của mùa xuân thiên nhiên đất nước mà còn là ước nguyện được làm một mùa xuân nho nhỏ hoà vào mùa xuân lớn của dân tộc. 
Ví dụ 3: Giới thiệu tác giả tác phẩm theo cách sáng tạo của riêng mình, cách này ngắn gọn, xúc cảm và sáng ý.
Khi nhắc đến nhà thơ Thanh Hải người ta nghĩ ngay đến bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - tác phẩm cuối cùng và đặc sắc nhất của ông. Mùa xuân nho nhỏ là nhan đề bài thơ hay tiếng lòng tha thiết ước nguyện chân thành của Thanh Hải khi biết mình sắp phải lìa xa cuộc sống mến thương. 
* Cách gián tiếp
Ví dụ 1: Từ cảm xúc bồi hồi rạo rực của con người trước thiên nhiên
Rạo rực trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước, tâm hồn người thi sĩ cũng xốn xang lắng đọng bởi những cảm xúc thiết tha ngọt ngào, khát vọng được dâng hiến được hoà nhập - đó là ước nguyện chân thành mà sâu sắc của nhà thơ Thanh Hải qua Mùa xuân nho nhỏ giản dị khiêm nhường.
Ví dụ 2: Liên tưởng từ cách gợi trong một bài hát cùng tên
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình...”
Bài hát đã khép lại nhưng khúc ngân của mùa xuân mang âm điệu mượt mà của câu hò xứ Huế vẫn còn vương vấn trong lòng người. Với chất nhạc, chất thơ lay động tâm hồn, ước nguyện chân thành tha thiết từ tấm lòng nhà thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã để lại trong lòng người ấn tượng và cảm xúc sâu lắng.
Ví dụ 3: Mở bài theo cách phản đề: Là xây dựng những ý nghĩa những hình ảnh mang tính chất đối lập để làm nổi bật vấn đề nghị luận.
Có người nói thi nhân phải cảm ơn mùa thu vì mùa thu đã gợi bao thi hứng làm nên những tác phẩm thơ bất hủ nhưng tôi lại cho rằng mùa xuân mới là mùa của thi ca, không thế mà sao có biết bao bài thơ xuân đã ra đời như “Xuân ý” của Chế Lan Viên, “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính và cả “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
2. Đoạn thân bài:
Trước hết, tôi phải xác định vai trò của phần thân bài cho học sinh nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó trong một bài văn. Phần thân bài sẽ lần lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá đối tượng ấy bằng tư tưởng, tình cảm của mình .....các luận điểm của vấn đề được đặt ra trong đề bài. Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng.Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách linh hoạt, uyển chuyển, tránh gò bó, máy móc, công thức.
Ví dụ: Một đoạn thân bài của đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.
Giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh tham khảo đoạn văn phân tích khổ thơ cuối: Người xưa thường nói “thơ là tiếng lòng”. Mỗi vần điệu trong bài thơ là một bức hoạ về cuộc sống. Nếu những khổ thơ trên là những suy ngẫm cảm động về ước nguyện dâng hiến thì khổ thơ cuối nhà thơ lại muốn được cất lên tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình xứ Huế:
	 Mùa xuân ta xin hát
  	 Câu Nam ai Nam bình
        	Nước non ngàn dặm mình
     	 Nước non ngàn dặm tình
     Nhịp phách tiền đất Huế. 
Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ bé trong cái ngàn dặm rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất gần gũi, tràn đầy yêu thương và ấm áp, gợi mở ra một cái tình rất riêng, rất Huế nhưng lại hoà chung được với nước non. Tiếng hát đằm thắm hiền hoà xen với những tiếng phách giòn giã, tươi vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời xứ Huế, kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả tình yêu nước non ngàn dặm, tình yêu quê hương đất nước.
3. Đoạn kết bài:
Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài. Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man hay lặp lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại nguyên văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá, tổng kết vấn đề. 
Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết. Có khi kết bài là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tác giả, tác phẩm. Có khi kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan. 
Thế nên, để hướng dẫn học sinh viết được những kết bài sâu sắc, giáo viên cần phải giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài không chỉ khép lại, hoàn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao về mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp
Dưới đây là hai cách kết bài cho đề bài văn: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải?
Ví dụ 1: Đánh giá chung về tác phẩm.
Bài thơ khép lại bằng một triện đỏ in dấu hồn thơ của người con xứ Huế. Bài thơ lay động tâm hồn chúng ta bởi chất nhạc xao xuyến và ước nguyện chân thành cảm động. Cái ước nguyện lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nho nhỏ đã tìm được những tiếng lòng đồng vọng. Bài thơ chính là một “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi.
 Ví dụ 2: Đánh giá ý nghĩa bài thơ và liên hệ bản thân.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ có tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết. Đọc “Mùa xuân nho nhỏ” trái tim ta dường như xao xuyến, một cảm xúc thanh cao, trong sáng từ từ dâng ngập hồn ta. Bài thơ đem đến cho chúng ta bao cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi cho ta suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng khiến ta cảm phục và tin yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân? Có tình yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước? Thấm nhuần tâm tư, ước nguyện của của nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca ngọt ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp. 
Sau khi học sinh viết bài hoàn chỉnh, giáo viên nên tạo cho các em thói quen đọc lại bài và sửa lỗi. Đó cũng là một hình thức soát lại bài giúp các em điều chỉnh, hoàn thiện những thiếu sót trong bài của mình. 
Bước 4: Đọc, sửa lỗi.
Đây là bước cuối cùng khi hoàn thiện bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Người viết phải có thói quen rà soát lại bài làm của mình để sửa lỗi về nội dung lẫn hình thức.
Về nội dung, người viết phải soát lại hệ thống luận điểm, luận cứ.
Về hình thức, người viết phải soát lại bố cục, các đoạn văn, các câu văn diễn đạt, lỗi chính tả thường mắc phải.
 Vì vậy giáo viên hướng dẫn các em và yêu cầu các em phải thực hiện bước này để hình thành thói quen kiểm tra lại bài viết của mình sau khi viết.
 MÔ HÌNH BÀI VĂN
 Mở bài Thân bài Kết bài
Tác giả Tác phẩm LĐ1 LĐ2 LĐ3 LĐ4 Khẳng định Liên hệ
Thao tác: phân tích, bình luận, đánh giá từng đoạn thơ
2.3. Kết quả đạt được
Theo dõi tỷ lệ học sinh thích học, biết viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ đúng và hay, cảm xúc trong quá trình dạy học đã thu được kết quả khá lạc quan:
Qua quá trình theo dõi kết quả cụ thể như sau: 
Tổng số học sinh khối 9: 103 em:
- Tỉ lệ yêu thích môn học:
Học sinh thích học
Học sinh không thích học
 SL
 %
 SL
 %
 90
 87.4
 13
 12.6

- Chất lượng dạy học được nâng cao rõ rệt:
Môn
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Tập làm văn
SL
%
SL
 %
SL
%
SL
%

28

27.2

52

50.5

18

17.5
 
05

4.9

Qua bảng so sánh trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy, nhờ áp dụng cảu tiến phương pháp, cách tổ chức hướng dẫn mà tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng lên; học sinh trung bình và yếu giảm rõ rệt.
	3. PHẦN KẾT LUẬN	
3.1. Bài học kinh nghiệm: 
Với tâm huyết giảng dạy thực tốt kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ và qua tích luỹ một vài kinh nghiệm hướng dẫn HS phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn, tôi đã giúp HS của các lớp do chính tôi trực tiếp giảng dạy đạt được kết quả tốt trong các kì kiểm tra học kì II và thi tuyển vào lớp 10 luôn đảm bảo chỉ tiêu chất lượng từ 90% trở lên và chất lượng năm sau cao hơn năm trước. Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề; khai thác được ý hay, ý sâu sắc; phân tích tinh tế, có cảm xúc, biết tìm tòi và sáng tạo mang phong cách riêng, không còn gượng ép, máy móc hay khuôn sáo.Rất ít bài làm sơ lược, ý nghèo nàn hoặc không tìm được ý.
3.2. Ý kiến đề xuất: 
Để việc dạy - học Tập làm văn thực sự có kết quả, để học sinh yêu thích tiết học này người giáo viên phải cố gắng nhiều trong việc nghiên cứu kĩ bài dạy trước khi lên lớp, soạn bài phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó người giáo viên phải có tri thức, vốn sống kinh nghiệm phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa. Đặc biệt là trong giờ Tập làm văn phải biết linh hoạt trong cách hướng dẫn, tổ chức cho các em không tẻ nhạt.
Về phía học sinh: phải nhiệt tình, tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ thuật bằng cả trái tim. Phải rèn luyện năng lực cảm thụ thơ của mình từ đọc diễn cảm, chỉ ra cái hay cái đẹp trong đoạn thơ, bài thơ phát hiện những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài. Học sinh cũng tự giác sưu tầm những đoạn văn, bài văn nghị luận về thơ có giá trị để tham khảo và có thể nạp về tủ sách nhà trường.
Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài, những bàn tay tự viết ra được những lời văn óng ánh, những nụ cười thiện cảm với môn Văn từ phía học sinh. Để đạt được những điều vô cùng quý giá đó mỗi giáo viên chúng tôi đâu chỉ có say mê nhiệt tình với công tác giảng dạy mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất. Và đối với tôi, việc tích luỹ một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách làm tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là điều tôi tâm đắc. Dẫu còn không ít thiếu sót trong cách trình bày, diễn đạt. Rất mong những ý kiến đóng góp, những lời chỉ bảo của bạn bè, đồng nghiệp và của những ai có duyên nợ với nghề: dạy Văn.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giai_giup_hoc_sinh_lo.doc