Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 7
Trong các môn khoa học cơ bản thì bộ môn Ngữ Văn có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển nhân cách của con người. Vì vậy mà bộ môn này được các cấp ngành quan tâm, nó chiếm một số lượng tiết khá lớn trong chương trình (từ 4 đến 5 tiết trên tuần) so với các môn khoa học khác. Ngữ Văn là môn khoa học xã hội có tầm quan trọng trong giáo dục nhân cách, quan điểm, tư tưởng và tình cảm cho học sinh. Nó không chỉ trang bị kiến thức nghe, nói, đọc, viết thành thạo Tiếng Việt cho học sinh mà còn rèn cho các em kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm Văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá Văn học. Ngữ Văn đồng thời cũng là môn học công cụ có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khác, vì thế học tốt môn học này sẽ giúp các em tiếp nhận được các môn khoa học khác một cách tốt hơn.
Thực tế dạy học ở môi trường hiện tại, tôi nhận thấy hầu hết các em cảm thụ văn chương, đưa văn chương vào cuộc sống và đặc biệt là cách hành văn còn thiếu tính chặt chẽ, lôgic. Nhiều bài kiểm tra của các em chỉ làm theo kiểu nghĩ gì thì viết cái đó hay là viết văn thiếu luận điểm, thiếu tính trải nghiệm thực tế…có khi các em chỉ biết học theo lối rập khuôn máy móc, chép văn mẫu mà không thể tự viết ra những điều mình nghĩ , mình cần bày tỏ. Vậy nên trong quá trình dạy viết văn nghị luận cho học sinh lớp 7 giáo viên sẽ gặp không ít những khó khăn. Đứng trước tình trạng đó, tôi không khỏi băn khoăn, lại là một giáo viên được phân công dạy bộ môn Ngữ văn 7 tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tìm biện pháp để giúp học sinh lớp 7 có được kĩ năng viết văn nghị luận tốt hơn. Vì vậy, tôi đã chọn: “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 7” làm đề tài.
Nghiên cứu đề tài về lĩnh vực rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 7 đã có nhiều nhà giáo quan tâm và không khỏi có những băn khoăn, đặc biệt là có nhiều bài viết đề cập đến nhưng chỉ mang tính chất chung chung, chưa đi sâu vào từng khối lớp cụ thể. Vì vậy khi nghiên cứu đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 7” tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc bổ sung thêm những kiến thức, kinh nghiệm trong quá trình dạy học Ngữ văn, đồng thời mỗi giáo viên có thể tham khảo, áp dụng vào quá trình rèn luyện, nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 7 của trường mình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh Lớp 7

những dạng đề như thế này, giáo viên có thể giúp cho học sinh phát triển về khả năng nhận định và phân tích tác phẩm văn học để làm sáng tỏ một vấn đề nghị luận, hiểu được giá trị của văn học đối với cuộc sống. Các em sẽ dần hình thành được khả năng tư duy trừu tượng, nắm bắt và cảm thụ được cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học về phương diện nội dung và nghệ thuật, hiểu cái cốt lõi được các nhà văn nhà thơ đề cập trong tác phẩm rồi từ đó các em sẽ vận dụng vào làm những đề khác tương tự như vây. c.Dạng đề rèn luyện thao tác so sánh các tác phẩm văn học. Có thể nói dạng đề này tương đối khó, đối với học sinh cấp 2, lại là học sinh lớp 7 mới làm quen với thể loại văn nghị luận nên rất ít học sinh có được thao tác này. Vậy người dạy phải hết sức công phu rèn luyện và phân tích rõ cho học sinh hiểu được giá trị của văn học sử, tác phẩm văn học gắn với từng giai đoạn lịch sử. Khi học sinh gặp phải những đề nghị luận mang tính tổng hợp hay đề cảm nhận văn học thì học sinh sẽ vận dụng thao tác lựa chọn những tác phẩm cùng thời kì lịch sử có nội dung liên quan đến đề để viết. Ví dụ: + Qua bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, em có suy nghĩ như thế nào về cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội cũ. + Trong văn bản “Ý nghĩa văn chương”, Hoài Thanh khẳng định: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sang tạo ra sự sống”. Qua văn bản “Ý nghĩa văn chương”, và những hiểu biết của mình hãy làm sang tỏ. + Bàn về ý nghĩa của văn chương, Hoài Thanh viết: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Bằng hiểu biết về tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, hãy chứng minh để làm sáng tỏ ý kiến đó? Với đề dạng này là khó với học sinh lớp 7 nhưng giáo viên có thể giải thích, hướng dẫn cụ thể để các em có thể lựa chọn được các ý cơ bản vào lập dàn bài: Giải thích được ý kiến của Hoài Thanh: “Gây” (có nghĩa là bổ sung làm giàu thêm tình cảm), “Luyện” (là làm cho tình cảm đó trong sáng hơn, đẹp hơn). Ý kiến của Hoài Thanh khẳng định Văn chương có ý nghĩa lớn trong việc bồi dưỡng tình cảm con người; Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh chứng minh qua tác phẩm văn học (ví như qua Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã luyện cho ta những tình cảm đẹp, cao quý: Cảm phục tinh thần của người dân để bảo vệ đê, cảm thương số phận bi thảm của họ khi đê vỡ, căm giận bọn quan lại trong xã hội cũ lại tự xưng là cha mẹ dân nhưng vô trách nhiệm với dân, coi ván bài quý hơn hàng ngàn sinh mệnh con người. Cuối cùng là khẳng định: Ý kiến của Hoài Thanh đã nêu bật một ý nghĩa quan trọng của văn chương. Tác phẩm nào thể hiện được điều đó sẽ sống mãi. + Có ý kiến cho rằng: “Tục ngữ là túi khôn của người dân lao động ”. Dựa vào những câu tục ngữ đã học trong chương trình, em hãy làm sang tỏ ý kiến trên. + So sánh những cảm nhận của Thạch Lam về cốm trong bài “Một thứ quà của lúa non: Cốm” với cách cảm nhận về hạt gạo của Trần Đăng Khoa trong đoạn thơ sau: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay * Rèn cụ thể kĩ năng phân tích đề văn nghị luận: Có nhiều dạng đề văn nghị luận khiến học sinh hiểu sai, hiểu lệch lạc nên không thể viết được một bài văn thuyết phục được người đọc. Vì vậy điều cơ bản là người giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh từng bước cụ thể, ví dụ như sau: Ví dụ 1: Ở đề bài : Theo Hoài Thanh thì công dụng của văn chương là “giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Bằng những hiểu biết về tác phẩm Ý nghĩa của văn chương và cuộc sống em hãy giải thích ý kiến trên. Học sinh khi gặp dạng đề này đã nhận diện bản chất đề rất khác nhau, có một số em cho rằng đây là vấn đề bàn về công dụng của văn chương nên chỉ chú trọng giải thích công dụng của văn chương xoay quanh trong tác phẩm (chi tiết con chim bị ngã rơi xuống chân người thi sĩ nên gợi tình cảm và lòng vị tha). Chỉ có một vài em hiểu đúng và trúng bản chất đề là: giải thích công dụng của văn chương thông qua tác phẩm Ý nghĩa của văn chương và những tác phẩm khác có liên quan đến luận điểm (thực chất là văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có, văn chương phản ánh cuộc sống thực để từ đó gợi lòng vị tha cho con người). Có thể chọn những đề nghiêng về phương diện nghệ thuật, những đề gây cho học sinh dễ ngộ nhận phân tích nội dung để làm sáng tỏ nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm. Ví dụ 2: Đặc sắc của truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn là “khéo léo vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp”. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Ở đề này, năng lực học sinh sẽ được bộc lộ rõ trong việc xác định kiến thức cần huy động để làm sáng tỏ luận điểm. Có nhiều em sẽ ngộ nhận chỉ đi vào phân tích nội dung của tác phẩm là hai bức tranh tương phản mà quên đi rằng chỉ cần lấy chi tiết tiêu biểu trong hai bức tranh đối lập để làm sang rõ nghệ thuật, nếu cần thiết có thể lấy ví dụ ở tác phẩm khác có cùng nội dung tương tự để phân tích. Như vậy việc xác định thao tác nghị luận chỉ cần củng cố, hệ thống lại vì trong bất cứ bài viết nào chúng ta cũng phải dùng nhiều thao tác khác nhau như: phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận. Điều cần lưu ý cho học sinh là phải xác định thao tác nào là chính để làm điểm tựa cho xây dựng luận điểm. Trong bước này thông thường tôi yêu cầu học sinh viết phần mở bài và kết bài của những đề đã được rèn kĩ năng phân tích đề và nêu rõ hướng giải quyết bằng hệ thống câu hỏi về nhà. Ví dụ 3: Bài thơ Tiếng gà trưa của nhà thơ Xuân Quỳnh đã gọi về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm đẹp đẽ và thiêng liêng ấy đã làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương đất nước. Em hãy làm sáng tỏ nội dung trên đây bằng một bài văn nghị luận. Đối với đề dạng này học sinh rất dễ bộc lộ khả năng tư duy trừu tượng của mình (khá, giỏi) nhưng đối với học sinh yếu và trung bình thì các em có thể chỉ đi vào phân tích hay kể ra những kỉ niệm của tuổi thơ và phân tích hình ảnh người bà trong tác phẩm mà quên rằng kỉ niệm và tình bà cháu lại là nguồn sức mạnh của tình yêu nước trong mỗi chúng ta. Vì vậy người giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh cụ thể từ cách mở bài cho đến thân bài rồi đến kết bài: - Mở bài: Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh (là nhà thơ nữ xuất sắc trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh thường viết về những tình cảm gần gũi, bình dị trong đời sống gia đình và cuộc sống thường ngày, biểu lộ những rung cảm và khát vọng của một trái tim phụ nữ chân thành, tha thiết và đằm thắm...); Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác bài thơ ( bài thơ được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ, bài thơ thể hiện vẻ đẹp trong sáng về những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm ấy đã làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương đất nước. ) -Thân bài: + Bài thơ Tiếng gà trưa đã gọi về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu: Trên đường hành quân, người chiến sĩ chợt nghe tiếng gà nhảy ổ, tiếng gà đã gợi về những kỉ niệm tuổi thơ thật êm đềm, đẹp đẽ (Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng và ổ trứng hồng đẹp như trong tranh hiện ra trong nỗi nhớ; Một kỉ niệm về tuổi thơ dại: tò mò xem trộm gà đẻ bị bà mắng; Người chiến sĩ nhớ tới hình ảnh người bà đầy lòng yêu thương, chắt chiu, dành dụm chăm lo cho cháu; Niềm vui và mong ước nhỏ bé của tuổi thơ: được bộ quần áo mới từ tiền bán gà - ước mơ ấy đi cả vào giấc ngủ tuổi thơ.) + Tình cảm bà cháu đẹp đẽ và thiêng liêng ấy đã làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương đất nước (Tiếng gà trưa với những kỉ niệm đẹp về tuổi thơ, hình ảnh thân thương của bà đã cùng người chiến sĩ vào cuộc chiến đấu ; Những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ như tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sĩ chiến đấu vì Tổ quốc và cũng vì người bà thân yêu của mình) + Qua những kỉ niệm đẹp được gợi lại, bài thơ đã biểu lộ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của người cháu với hình ảnh người bà đầy lòng yêu thương, chắt chiu dành dụm chăm lo cho cháu. + Tình cảm bà cháu đẹp đẽ và thiêng liêng ấy đã làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương, đất nước của mỗi chúng ta. Tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu Tổ quốc bắt nguồn từ những tình cảm gia đình thật gần gũi, thân thương và cũng thật sâu sắc . Những tình cảm thiêng liêng, gần gũi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sĩ, như tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người để chiến thắng + HS có thể mở rộng và nâng cao bằng việc giới thiệu một số bài thơ khác có cùng chủ đề viết về bà, về mẹ. - Kết bài: + Khẳng định lại nội dung bài thơ: Bài thơ Tiếng gà trưa đã gọi về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm đẹp đẽ và thiêng liêng ấy đã làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương đất nước. + Học sinh có thể tự liên hệ bản thân, nêu cảm nghĩ về tình cảm gia đình - nguồn sức mạnh cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hôm nay, có thể mở rộng và nâng cao qua một số tác phẩm văn học khác nói về tình cảm gia đình ... 2.3.2. Giải pháp 2: Rèn kĩ năng lập dàn ý Trong phần này tôi tiếp tục củng cố kĩ năng nhận diện bản chất của đề, sau đó hướng cho học sinh cách lập dàn ý cho đề văn. Trước khi viết văn cần cho học sinh lập dàn ý sơ lược, cụ thể: + Học sinh phải đọc kĩ đề ra để trình bày được hệ thống luận điểm cơ bản sẽ triển khai trong bài viết. + Xác định được mối quan hệ và tầm quan trọng của các luận điểm sẽ viết trong bài. + Sắp xếp các luận điểm theo trình tự trước sau nhưng phải đảm bảo tính lô gic và dung lượng đoạn văn sẽ triển khai làm sáng tỏ cho một luận điểm. Vậy để có thể thực hiện được những yêu cầu cơ bản trên, tôi thường hướng cho các em đặt ra những câu hỏi để xác định luận điểm như sau: Sau khi ở trên lớp hoàn thành việc lập dàn ý sơ lược, bước tiếp theo giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách viết phần mở bài, kết bài và các câu, các đoạn chuyển ý trong bài văn. Cuối cùng ra về nhà cho học sinh tự hoàn chỉnh bài viết của mình, hôm sau trình bày và tiếp tục sửa chữa. Kĩ năng này nếu giáo viên rèn luyện kĩ cho học sinh sẽ hình thành cho các em khả năng học tập chủ động, tư duy độc lập, khắc phục được tình trạng học sinh viết văn theo kiểu ngẫu hứng, tùy tiện nghĩ gì thì viết nấy. Trong thời gian giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 7 tôi thấy áp dụng phương pháp này rất có khả quan, học sinh tiếp cận đề văn nghị luận có thể nhanh chóng hình thành được luận điểm trước khi viết bài chỉ trong vòng khoảng 30 phút, như thế bài văn của các em sẽ đầy đủ ý và mạch lạc hơn, theo tôi đây là bước rất cần thiết của một bài văn nghị luận. 2.3.3. Giải pháp 3: Rèn kĩ năng viết văn Đánh giá một bài văn nghị luận hay, thuyết phục không chỉ căn cứ vào việc học sinh nhận thức trúng đề, tìm ra được luận điểm cơ bản hợp lí, kiến thức cuộc sống phong phú mà còn phụ thuộc vào yếu tố học sinh phải biết cách diễn đạt, trình bày hiểu biết của mình một cách mạch lạc, logic, sang sủa, có sức thuyết phục. Do đó bước rèn kĩ năng hành văn cho học sinh là điều rất cần thiết, để làm được việc này tôi đã tiến hành các bước như sau: 2.3.4. Giải pháp 4: Giáo viên hướng cho học sinh tự chấm và chữa bài Sau khi rèn kĩ năng cơ bản cho học sinh để viết được một bài văn hay và đúng, bước cuối cùng người giáo viên phải chấm và chữa bài cho học sinh một cách công phu, tỉ mỉ. Nhiều người cho rằng việc chấm chữa chỉ là bình thường, cơ bản là các bước rèn kĩ năng trên, nhưng đối với tôi bài kiểm tra của học sinh, tự chấm và chữa bài là công việc rất cần thiết đòi hỏi giáo viên phải có thời gian và tâm huyết (giáo viên chấm chữa bài và trả bài, sau đó học tự đọc lại và chấm bài của mình). Khi chấm bài giáo viên cần thiết phải lưu ý cả về kiến thức và kĩ năng của học sinh, đặc biệt phải chỉ ra được điểm yếu, điểm mạnh trong từng bài viết, đồng thời theo dõi và động viên, bổ sung cho các em kịp thời. Việc chữa bài viết cho học sinh, tôi kết hợp các hình thức như sau: + Giáo viên chữa bài cho học sinh chỉ ra các loại lỗi như: câu, đoạn, từ ngữ, sắp xếp các ý trong bài, các câu và từ chuyển đoạn, giọng văn, cách thức trình bày một bài hợp logic. + Giáo viên có thể cho học sinh tự đọc to bài của mình để rồi tự nhận ra các lỗi trong bài, sau đó giáo viên phân tích cho học sinh hiểu bản chất của vấn đề và định hướng cách chữa, sau đó học sinh tự chữa lỗi trong bài của mình. Áp dụng cách này học sinh có thể nhớ rất lâu bài viết của mình. Khâu chấm và chữa bài cho học sinh yêu cầu rất công phu, đòi hỏi phải nghiêm túc, nếu học sinh nào viết chưa được, yêu cầu các em về nhà viết lại sao cho được mới thôi. Như vậy tất cả các khâu rèn luyện cách làm văn nghị luận cho học sinh kể trên đều rất quan trọng, nó sẽ giúp các em có được kĩ năng làm văn tốt đồng thời còn giúp các em có được kiến thức cần thiết để áp dụng trong quá trình học tập và tự tin hơn trong cuộc sống. 2.4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM - Kinh nghiệm và những biện pháp trên đã được tôi áp dụng trong 3 năm qua, bắt đầu từ năm 2014. Từ khi áp dụng những biện pháp trên để dạy làm văn nghị luận cho học sinh đã có được những kết quả khả quan, số lượng học sinh có kĩ năng viết văn nghị luận khá tốt được tăng lên qua các năm học. Số liệu đạt được cụ thể như sau: Năm học Tổng số học sinh tham gia Kết quả đạt được 2014 - 2015 45 25 2015 – 2016 63 34 2016 - 2017 62 40 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI Thực hiện đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh lớp 7” tôi đã đưa ra 4 biện pháp, cụ thể là: Nhận diện đề văn; Rèn kĩ năng lập dàn ý; Rèn kĩ năng viết văn; Giáo viên hướng cho học sinh tự chấm và chữa bài với mong muốn cung cấp cho học sinh những kĩ năng làm văn tốt hơn để các em có thể tự cải thiện được cách học văn của mình sao cho đạt kết quả tốt nhất. Bốn biện pháp nêu trên là kinh nghiệm của bản thân tôi về việc dạy cách làm văn nghị luận cho học sinh lớp 7. Có thể những điều này không phải là những mới mẻ với các đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm hơn tôi, nhưng đối với tôi thì đây là một trong những điều tôi tâm đắc sau nhiều năm đi dạy, đó là: + Giáo viên dạy văn nên coi trọng việc ra đề kiểm tra để đánh giá đúng thực chất các mức độ làm văn của học sinh (phân loại được từng đối tượng học sinh để có phương pháp rèn kĩ năng cụ thể). + Vận dụng nhiều cách để gợi mở, dẫn dắt tạo nguồn cảm hứng cho học sinh, khơi dậy suy nghĩ, óc tưởng tượng cho các em trong quá trình quan sát và cảm thụ về tác phẩm văn học. + Khuyến khích và chỉ rõ cho học sinh biết cách đọc sách, ghi chép những vấn đề cơ bản đã đọc được làm tư liệu sổ tay văn học để các em có thể vận dụng vào bài viết khi có kiến thức liên quan. + Giáo viên phải tạo được hứng thú thích học cho học sinh ở các tiết Tập làm văn (đặc biệt là tiết học làm văn nghị luận). 3.2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT - Đối với Ban giám hiệu nhà trường: + Tham mưu với thư viện, giáo viên dạy bộ môn mua thêm sách, tạp chí văn học phục vụ cho giáo viên và học sinh. + Nên tổ chức trong một năm học cho học sinh hoạt động ngoại khóa tham quan trải nghiệm để học sinh có thêm hiểu biết thực tế. - Đối với chuyên môn: Hằng năm chuyên môn kết hợp với giáo viên dạy bộ môn thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy để học sinh phát triển cả về năng lực và phẩm chất.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_va.doc