Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại Ngữ Văn 8
Văn học trung đại là dòng văn học rất có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Ở chương trình Ngữ văn 8, văn học trung đại Việt Nam góp phần bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, tinh thần nhân đạo, lòng tự hào dân tộc, …. Tuy nhiên để giúp học sinh cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của các văn bản ấy đối với giáo viên không phải là điều dễ bởi các tác phẩm này thường viết bằng chữ Hán, sử dụng nhiều điển tích, điển cố, có nhiều từ cổ, từ Hán Việt nên học sinh khó nắm bắt. Bên cạnh đó, các văn bản này thuyết phục người nghe không chỉ bằng lí trí mà còn bằng cả tình cảm nên cách thức giảng dạy cũng có khác so với các thể loại khác; ngoài ra mỗi văn bản lại có những đặc điểm riêng so với các tác phẩm cùng thể loại.
Về phía học sinh hiện nay thì đa số các em ít hứng thú với môn Ngữ văn nên việc đầu tư nghiên cứu bài còn qua loa chiếu lệ. Bên cạnh đó có một số em dù thích học bộ môn nhưng lại không có năng khiếu. Hơn nữa vốn từ, hiểu biết lịch sử của các em còn hạn chế nên việc tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm cũng chưa có chất lượng. Từ “rào cản” đó mà sự tiếp cận kiến thức mới đối với các em rất hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến sự lắng động kiến thức mà giáo viên muốn truyền thụ đến các em.
Là một giáo viên bộ môn Ngữ văn, trước thực trạng trên, tôi luôn băn khoăn, tìm giải pháp để nâng cao chất lượng giờ học. Và qua nhiều lần giảng dạy Ngữ văn 8, tôi đã rút ra được vài kinh nghiệm khi dạy một số văn bản văn học trung đại như: Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta, Bàn luận về phép học.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại Ngữ Văn 8

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số (do thường trực hội đồng ghi): .. 1. Tên sáng kiến: Nâng cao hiệu quả giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại – Ngữ văn 8. 2 Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: chuyên môn giảng dạy 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: Văn học trung đại là dòng văn học rất có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Ở chương trình Ngữ văn 8, văn học trung đại Việt Nam góp phần bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, tinh thần nhân đạo, lòng tự hào dân tộc, . Tuy nhiên để giúp học sinh cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của các văn bản ấy đối với giáo viên không phải là điều dễ bởi các tác phẩm này thường viết bằng chữ Hán, sử dụng nhiều điển tích, điển cố, có nhiều từ cổ, từ Hán Việt nên học sinh khó nắm bắt. Bên cạnh đó, các văn bản này thuyết phục người nghe không chỉ bằng lí trí mà còn bằng cả tình cảm nên cách thức giảng dạy cũng có khác so với các thể loại khác; ngoài ra mỗi văn bản lại có những đặc điểm riêng so với các tác phẩm cùng thể loại. Về phía học sinh hiện nay thì đa số các em ít hứng thú với môn Ngữ văn nên việc đầu tư nghiên cứu bài còn qua loa chiếu lệ. Bên cạnh đó có một số em dù thích học bộ môn nhưng lại không có năng khiếu. Hơn nữa vốn từ, hiểu biết lịch sử của các em còn hạn chế nên việc tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm cũng chưa có chất lượng. Từ “rào cản” đó mà sự tiếp cận kiến thức mới đối với các em rất hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến sự lắng động kiến thức mà giáo viên muốn truyền thụ đến các em. Là một giáo viên bộ môn Ngữ văn, trước thực trạng trên, tôi luôn băn khoăn, tìm giải pháp để nâng cao chất lượng giờ học. Và qua nhiều lần giảng dạy Ngữ văn 8, tôi đã rút ra được vài kinh nghiệm khi dạy một số văn bản văn học trung đại như: Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta, Bàn luận về phép học. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến: - Mục đích của giải pháp Từ thực trạng nêu trên, qua nhiều năm giảng dạy, tôi xin đưa ra một số giải pháp để giúp học sinh hứng thú học Ngữ văn hơn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 8. - Nội dung giải pháp + Tính mới của sáng kiến Đối với sáng kiến này, điểm mới là: chú trọng lời giới thiệu bài để tạo sự hứng thú, giúp học sinh có “tinh thần” học hơn; song song đó khi phân tích giáo viên lưu ý đến đặc điểm của từng văn bản; ngoài ra cũng cần giới thiệu qua về tâm lí đặc thù của người trung đại cho học sinh rõ. + Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ Sự khác biệt của giải pháp này so với giải pháp cũ là giáo viên có sử dụng nhiều hình ảnh trực quan, vận dụng nhiều bài hát, bài thơ, câu đố ... cũng như giáo viên chú trọng nhiều hơn đến đặc điểm của văn bản. Qua đó, giúp cho giờ học sinh động hơn, học sinh hứng thú học tập và chất lượng dạy học cũng nâng cao hơn. + Cách thức thực hiện, các bước thực hiện cụ thể của giải pháp mới 1. Soạn lời giới thiệu bài. Giới thiệu bài mới là một khâu thiết yếu của quá trình soạn giảng. Thế nhưng trong thực tế giảng dạy, đôi khi do áp lực thời gian, công việc nên cũng có lúc giáo viên chưa chú trọng đến việc giới thiệu bài một cách ấn tượng, tạo được sự thu hút với học sinh. Để khắc phục tình trạng này, trong quá trình giảng dạy Ngữ văn nói chung, văn học trung đại 8 nói riêng, tôi thường đầu tư cho lời giới thiệu bài mới bằng cách vận dụng các bài thơ, bài hát, các hình ảnh, các sự kiện lịch sử ... có liên quan đến tác giả, tác phẩm để tạo ấn tượng ban đầu, thu hút học sinh hứng thú với tiết học và bước đầu giáo viên cũng giúp cho học sinh nắm sơ lược về bối cảnh xã hội mà các tác giả muốn phản ánh qua tác phẩm. Ví dụ khi dạy văn bản “Chiếu dời đô”, tôi vận dụng bài thơ “Thăng Long nghìn tuổi” của Huy Cận để giới thiệu bài. “Đây Thăng Long đất sắp tròn nghìn tuổi Rồng bay lên ngày tháng tốt tâu vua Lý Công Uẩn mắt thần nhìn nước non mở hội Bốn phương trời Đại Việt lập kinh đô.” Đây là bốn câu đầu trong bài thơ “Thăng Long nghìn tuổi” của Huy Cận nói về một sự kiện cách nay hơn 1000 năm. Vào mùa thu năm Canh Tuất 1010, Lý Công Uẩn – vị vua sáng lập vương triều nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Trước khi thực hiện việc trong đại ấy, ông đã viết “Chiếu dời đô”. Đây cũng là văn bản mà hôm nay các em sẽ được tìm hiểu. Với “Hịch tướng sĩ” khi giới thiệu bài, giáo viên dùng một câu đố nhỏ với học sinh: “Ở thời nhà Trần, có một vị tướng tài, ba lần chỉ huy quân dân Đại Việt đánh đuổi quân xâm lược Nguyên – Mông hung bạo được người dân bao đời sùng kính phong Thánh. Đó là vị tướng nào?”. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên sẽ giới thiệu tiếp: “Vị tướng ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Ông thông minh hơn người, xem rộng biết nhiều, đủ tài văn võ. Đức thánh Trần đã để lại cho ta rất nhiều tác phẩm có giá trị, đặc biệt là “Hịch tướng sĩ”. Hay “ Nước Đại Việt ta”: Giáo viên cho học sinh xem tranh Nguyễn Trãi và giới thiệu: “Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi là một cố vấn đặc biệt của Lê Lợi. Và điều đáng giá vượt tầm thời đại và mang ý nghĩa vĩnh cửu là ông đã hướng cuộc chiến tranh về phía hòa bình vĩnh viễn, ông đã đem đạo đức đặt vào giữa lòng chiến tranh, đem tình thương để chiến thắng bạo tàn. Sau khi đánh đuổi được để thù, tư tưởng này cũng được thể hiện trong các sáng tác văn chương của ông. Trong đó không thể không kể đến “Bình Ngô đại cáo”. Trong tiết học hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu một phần của tác phẩm – đoạn trích “Nước Đại Việt ta.” Còn với “Bàn luận về phép học”, tôi cho học sinh nghe một đoạn trong bài hát “La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp”: “Chiến tranh kéo dài trời Việt tràn bao đau thương ... La Sơn phu tử xuống núi phò đấng minh quân”. Sau khi cho học sinh cảm nhận về bài hát, giáo viên nói: Lời bái hát nói đến La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, ông là người học rộng hiểu sâu, thông tư sáng suốt, rất được vua Quang Trung tín nhiệm. Nhà vua nhiều lần mời ông hợp tác với triều Tây Sơn nhưng vì nhiều lí do ông chưa nhận lời. Năm 1791 vua lại viết chiếu thư mời. Trước tấm lòng của nhà vua, ông đã nhận lời. Khi vào Phú Xuân hội kiến nhà vua, ông đã viết bài tấu bàn về ba việc: quân đức, dân tâm, học pháp. Hôm nay, cô sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu phần thứ ba của bài tấu – học pháp hay như sách giáo khoa đã viết: “Bàn luận về phép học”.. 2. Cách phân tích văn bản. Cũng như các văn bản văn học khác, trong quá trình hướng dẫn học sinh phân tích, tôi sử dùng nhiều dạng câu hỏi và có sự đan xen hợp lí các câu hỏi tái hiện, nâng cao, tư duy, giáo dục tư tưởng tình cảm học sinh, liên hệ thực tế. Đặc biệt, tôi cũng chú ý đặc điểm của từng văn bản để soạn giảng hợp lý. Cụ thể: Khi dạy “Chiếu dời đô” phải lưu ý văn bản cũng mang đặc điểm của thể chiếu là lời ban bố mệnh lệnh của vua chúa xuống thần dân; chức năng là công bố chủ trương mà vua nêu ra và yêu cầu thần dân thực hiện. Tuy vậy bài chiếu lại có đặc điểm riêng: bên cạnh tính chất mệnh lệnh là tính chất tâm tình; bên cạnh ngôn ngữ đơn thoại, một chiều của người trên ban bố mệnh lệnh cho kẻ dưới là ngôn ngữ mang tính chất đối thoại, trao đổi. Chính nhờ điều này đã tạo nên sức thuyết phục to lớn cho “Chiếu dời đô”. Dạy “Hịch tướng sĩ” giáo viên cần lưu ý học sinh tác phẩm cũng cơ bản giống các bài hịch khác nhưng kết cấu có sự thay đổi linh hoạt, tác giả không nêu phần đặt vấn đề riêng vì toàn bộ bài hịch là nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Điểm không thể bỏ qua của tác phẩm là nó được viết chủ yếu bằng văn biền ngẫu, ngôn ngữ gần gũi, thân tình. Điều này phù hợp với đối tượng và mục đích của bài hịch – ta nói với ta, nói để đánh bại tư tưởng bàng quan, cầu an hưởng lạc, thái độ thờ ơ trước vận mệnh đất nước trong hàng ngũ tướng sĩ. “Nước Đại Việt ta” là một đoạn trích, trong đó Nguyễn Trãi có nhắc đến “nhân nghĩa”. Đây là tư tưởng Nho giáo đã nhắc đến nhiều. Tuy nhiên với Nho giáo thì “nhân nghĩa” chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Với Nguyễn Trãi, ông không suy nghĩ sâu xa như Khổng Tử mà nó là một khái niệm rất gần gũi với đời thường: “nhân nghĩa” là “yên dân”. Khi dân được yên, được sống trong ấm no hạnh phúc thì tất thảy đất nước đó sẽ phát triển như một quy luật. Đây là một tư tưởng rất hiện đại, mà sau này Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát huy “Lấy dân làm gốc”. Với “Bàn luận về phép học” cần lưu ý học sinh về điểm khác biệt so với ba văn bản trên: chiếu, hịch, cáo là các thể văn do vua chúa, tướng lĩnh, thủ lĩnh viết còn tấu thì ngược lại, do thần dân gửi lên vua chúa. Ngoài ra cũng cần nói rõ để học sinh không nhầm với tấu trong văn học hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng, thường có ý nghĩa thời sự, mang yếu tố vui, hài hước. 3. Lưu ý tâm lí đặc thù của người trung đại. Ngày nay học sinh sống một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, một cuộc sống mà khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão cho nên có thể có em sẽ khó hiểu, khó thấu đáo những tư tưởng, suy nghĩ được đề cập đến trong tác phẩm. Chính vậy nên giáo viên cần nói qua cho các em biết về tâm lí đặc thù của người trung đại – noi theo tiền nhân, dựa vào mệnh trời – để các em có thể dễ dàng thâm nhập tác phẩm. Giáo viên cần nói cho học sinh rõ người trung đại thường coi thời hoàng kim là thời đã qua, khuôn mẫu được làm nên bởi tiền nhân, nên thường trích dẫn điển tích, điển cố. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Những giải pháp trên chỉ là một phần rất nhỏ trong số các phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nhưng trong quá trình thực hiện tôi nhận thấy nó đã góp phần khơi gợi sự hứng thú học tập của học sinh và từ đó hiệu quả giảng dạy cũng được nâng cao. Chính vì thế nên giải pháp này có thể áp dụng để giảng dạy văn học trung đại ở các khối lớp ở các trường. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp: Qua quá trình giảng dạy theo những kinh nghiệm nêu trên, bản thân người viết đã thu được một số hiệu quả tích cực như: - Các giờ dạy trở nên linh hoạt, ít gò bó nhưng vẫn đạt hiệu quả. - Học sinh có tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng trong học tập và thích học văn hơn. Qua cách thức thực hiện như trên, hiệu quả giảng dạy bộ môn cũng được nâng cao: Năm Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 2013 – 2014 13 30,3 25 58,1 5 11,6 0 0 0 0 2014 – 2015 15 34,9 23 53,5 5 11,6 0 0 0 0 3.5. Tài liệu kèm theo: không Bến Tre, ngày 20 tháng 02 năm 2016
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_giang_day_cac_tac_ph.docx