Sáng kiến kinh nghiệm Phát hiện và bồi dưỡng HSG Ngữ Văn ở Trường THCS Gio Hải
Văn học vốn rất gần gủi với cuộc sống mà cuộc sống thì vô cùng bề bộn và phong phú. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng cuộc sống được nhà văn chọn lọc, phản ánh. Vì vậy văn chương trong nhà trường có vị trí rất quan trọng. Nó là vũ khí thanh tao, đắc lực có tác dụng sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của con người, bồi đắp cho tâm hồn con người trở nên trong sáng hơn, phong phú và sâu sắc hơn. Macxim Goorki nói: “văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nãy nở con người khát vọng hướng tới chân lí. Văn học chắp đôi cánh để các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi nền văn hóa, xây dựng trong các em niềm tin vào cuộc sống, con người, trang bị cho các em vốn sống, hướng các em tới cái chân thiện mỹ. Qua văn chương con người cảm nhận và ý thức được cái đẹp và sự hài hòa của cuộc sống, tiếp cận và tự nâng mình lên với những tư tưởng tình cảm sâu sắc, tinh tế. Được bồi dưỡng về ngôn ngữ - thứ ngôn ngữ phong phú, sống động và giàu sức biểu cảm của dân tộc. Người Việt Nam không chỉ hôm qua mà cả hôm nay nữa đã gửi vào văn chương những kinh nghiệm sống về tình yêu, khát vọng về cả đạo đức triết học và tín ngưỡng của mình. Cho nên muốn biết ông cha ta đã sống như thế nào, đã nhắn gửi gì cho các thế hệ tương lai cũng như con người Việt Nam trong thời đại này đang buồn, vui, đau khổ, lo lắng, suy nghĩ và hy vọng ra sao thì hãy đến với văn thơ.
Là môn khoa học xã hội mang tính nghệ thuật cao nên khi nghiên cứu giảng dạy về văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải có vốn kiến thức, vốn sống, sự nhạy cảm và quá trình làm việc nghiêm túc công phu. Giảng dạy và bồi dưỡng những kiến thức văn học vừa mang tính qui luật, vừa mang tính xã hội nhưng cũng luôn luôn phải cập nhật thực tiễn, phục vụ cuộc sống để cuộc sống kiểm nghiệm và khẳng định. Cũng như khi học các môn học khác, để trở thành một học sinh giỏi văn người học chỉ có tâm hồn văn học, năng khiếu văn học thì chưa đủ, muốn thành tài, người học sinh phải có một quá trình học tập miệt mài, kiên nhẫn, có phương pháp học tập phù hợp, có người thầy dạy và bồi dưỡng nhiệt tình với phương pháp tối ưu, hiệu quả.
Với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng học Ngữ văn trong nhà trường nói chung, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn trong trường THCS nói riêng, tôi trình bày SKKN ”Phát hiện và bồi dưỡng HSG Ngữ văn ở trường THCS”, xin được trao đổi một vài kinh nghiệm của cá nhân cùng các đồng nghiệp tìm ra phương pháp giảng dạy bồi dưỡng tối ưu nhằm đạt hiệu quả trong sự nghiệp trồng người của quê hương, đất nước.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát hiện và bồi dưỡng HSG Ngữ Văn ở Trường THCS Gio Hải

h trạng thích gì dạy nấy theo cảm tính. Để xây dựng được một chương trình ôn luyện đạt hiệu quả cao mà không nhàm chán đối với học sinh (vì các kiến thức đều đã được học) giáo viên cần sáng tạo trong việc thể hiện nội dung, kiến thức. sắp xếp lượng kiến thức giữa phân môn phù hợp với yêu cầu. Vì mục đích cuối cùng của học sinh là tạo lập được một văn bản đầy đủ về nội dung và hình thức. Để làm được điều đó, khi lên chương trình bồi dưỡng giáo viên cần phải chú ý đến tính thống nhất giữa các phân môn. Hơn nữa, đối với từng phân môn cần phải đảm bảo đúng đặc trưng của từng phần. Đối với phân môn Tiếng Việt, khi giáo viên bồi dưỡng cho học sinh ngoài việc cũng cố cho các em: cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, các biện pháp tu từthì đối với loại đơn vị kiến thức giáo viên cần phải chuẩn bị một hệ thống bài tập ứng dụng đối với từng loại. Hoặc khi lên chương trình Văn học: giáo viên phải hệ thống lại kiến thức đã học rồi chia ra từng mảng chuyên đề, chủ đề. Để tóm lược được nội dung tác phẩm và khái quát lên vấn đề trọng tâm. Ví dụ chúng ta sẽ chia ra các chủ đề như: Chủ đề về người phụ nữ Chủ đề về người lính Chủ đề về người nông dân Chủ đề về người mẹ Để từ những kiến thức mang tính khái quát – học sinh có thể khai triển ra một cách cụ thể hơn, sâu sắc hơn theo cách cảm và cách nghĩ của bản thân một cách sang tạo hơn. Còn đối với Tập làm văn, do có sự lặp lại và nâng cao về nội dung kiến thức cho nên việc ôn luyện lý thuyết có phần thuận lợi hơn. Do đó khi lên chương trình giáo viên đặc biệt chú trọng hơn đối với phần luyện tập. Giáo viên có thể bố trí làm sao đó học sinh có thể được thực hành càng nhiều càng tốt. Và đối với mỗi kiểu loại hay mỗi dạng đề, giáo viên cần phải có ví dụ minh họa cụ thể. Bên cạnh việc xây dựng một chương trình cụ thể về nội dung và phương pháp thì việc lên kế hoạch và thời gian bồi dưỡng cho học sinh cần phải hợp lý kế hoạch. Việc sắp xếp các buổi học bồi dưỡng không nên gần nhau mà có thể phân đều trong tuần. Và mỗi buổi học không quá 3 tiết. Mục đích của việc này là tạo điều kiện cho các em có thời gian làm bài tập ở nhà và thời gian học các môn học khác. Đồng thời làm mềm hóa áp lực của sự thi cử. Nói tóm lại việc xây dựng chương trình bồi dưỡng là một việc làm cần thiết và quan trọng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Bởi khi giáo viên có sự chuẩn bị bài kĩ lưỡng thì công tác bồi dưỡng sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 3.3. Những kiến thức cơ bản cần bồi dưỡng. - Kiến thức Ngữ Văn ở chương trình THCS đặc biệt ở lớp 8 bao gồm nhiều kiến thức nhằm nâng cao hứng thú có tính tự nhiên đối với Văn học, những say mê có ý thức và định hướng, hướng nghiệp, bồi dưỡng rèn luyện cảm xúc phong phú có tính bột phát và hướng cảm xúc đó vào cảm xúc lí tính một cách nhuần nhuyễn, bồi dưỡng khả năng tái hiện sự sống thành tư duy hình tượng. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ, khả năng phân tích sâu sắc, tinh tế, bồi dưỡng khả năng nói lưu loát, tự nhiên có sức truyền cảm và tính thuyết phục (trên cơ sở những kiến thức về ngữ pháp, vốn từ và tu từ). Giúp học sinh biết lập luận, giải quyết vấn đề mạch lạc rõ ràng, khoa học. Phát huy được những nét sáng tạo, nét riêng thành khả năng phát hiện, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề khó. Tạo ra cách nói, cách viết có giọng điệu riêng. Phát huy trí thông minh làm cho tư duy phát triển đạt trình độ cao, có lí luận thao tác về cách viết, cách nói ngắn gọn, rõ ràng, có sức thuyết phục. Muốn vậy phải bồi dưỡng kiến thức văn học cho các em có tính hệ thống, có chiều sâu theo từng vấn đề, từng chủ điểm như: chủ đề về Tổ quốc, chủ đề về người phụ nữ, về người nông dân, cảm hứng nhân đạo, cảm hứng yêu nướchay chia nhỏ hơn nữa là những chủ đề về thiên nhiên, về trẻ thơ, về trăng, về tình bạn, về mùa xuân, mùa thu Cung cấp kiến thức về văn học sử ở từng giai đoạn, văn học sử về từng tác giả, văn học sử về tác phẩm rồi xâu chuỗi tác phẩm đó vào một hệ thống nhất định * Chú ý: Khi ôn luyện cần ôn tập đầy đủ không luyện tủ kiến thức mà cần khắc sâu những trọng tâm, trọng điểm. Từ đó học sinh liên tưởng toả ra các kiến thức khác khi cần vận dụng. Cụ thể, cần bồi dưỡng những kiến thức sau: - Sơ lược về giai đoạn lịch sử - văn học( để học sinh có liên hệ tốt với hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm). - Sơ lược về tác phẩm văn học.( để học sinh có cơ sở lí luận tốt khi làm bài). - Mối quan hệ giữa Văn học dân gian và Văn học viết. - Sức sống của dân tộc Việt Nam qua truyện cổ tích hoặc ca dao. Cách phân tích ca dao (chọn một số chủ điểm về đất nước, con người, tình nghĩa) - Thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam qua Văn học Trung đại. - Chủ nghĩa nhân đạo và cảm hứng yêu nước trong Văn học Trung đại. - Hình tượng người nông dân, người phụ nữ, trẻ em trong Văn học hiện thực. - Hình ảnh trăng trong thơ. - Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng trong văn học từ đầu thế kỉ XX đến 1945 (trong thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hồ Chí Minh, Tố Hữu). - Tình yêu thiên nhiên, tư tưởng nhân nghĩa trong thơ Nguyễn TrãI, Hồ Chí Minh. - Bộ mặt Thực dân, phong kiến trong văn học đầu thế kỉ XX. - Thơ mới – thành tựu về nội dung, tư tưởng và giá trị nghệ thuật. - Một số đề nghị luận về mối quan hệ giữa văn học và các vấn đề cuộc sống xã hội (Văn học và tình thương,) - Một số đề nghị luận xã hội. - Một số đề cảm thụ đoạn thơ. - Giới thiệu về tác giả. - Thể loại và cách phân tích tác phẩm theo thể loại( thơ, truyện, kịch, kí). Ngoài ra, còn phải cung cấp một số khái niệm văn học: đề tài, chủ đề, hình tượng, bố cục, kết cấu, cốt truyện, điển hình, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo. Những trọng tâm, trọng điểm trên giáo viên cần triển khai thành nhiều chuyên đề nhỏ để bồi dưỡng cho học sinh. Chú ý sắp xếp theo tiến trình lịch sử văn học, theo hệ thống. Giáo viên có thể triển khai thành nhiều đề bài, kiểu bài khác nhau để học sinh làm quen và biết cách giải quyết triệt để. 3.4 Các bước rèn luyện kĩ năng làm văn. Khi tiến hành rèn luyện kĩ năng làm văn, tôi tiến hành các bước sau: - Lựa chọn hướng ra đề. Tôi luôn ý thức một cách sâu sắc rằng, việc ra đề là khâu quan trọng đầu tiên của quá trình phát hiện, đánh giá và lựa chọn HSG. Đề đúng và hay sẽ phân hoá được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm trúng điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh, từ đó có thể đánh giá khách quan, chính xác, công bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của học sinh, tạo được niềm tin và hứng thú học tập cho các em. Ngược lại, đề thiếu chính xác, sáo mòn không những không đánh giá được chính xác về năng lực học sinh mà còn giảm thiểu tính độc lập sáng tạo không gây được hứng thú học văn. Và hậu quả của nó là việc rèn kĩ năng sẽ trở nên vô nghĩa. Theo dõi hướng ra đề thi HSG các cấp trong những năm qua, tôi nhận thấy đề thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lí luận văn học và cảm thụ văn chương. Vài ba năm nay, đề thi HSG có xu hướng mở và chú ý đến hình thức nghị luận xã hội. Nhìn chung, tinh thần nhất quán của đề thi HSG là theo sát chương trình. Đề thi thường có hai phần kiến thức rõ rệt: Phần 1: Phần đọc hiểu: Thường có một câu hỏi về các kiến thức cơ bản về thể loại hay câu hỏi dưới dạng phân tích, cảm thụ một đoạn thơ, một đoạn văn trong đó có chứa đựng nhiều phép tu từ và giàu sức biểu cảm. Phần 2: Thường có một câu với yêu cầu khái quát hoá kiến thức khá rộng về văn học sử giảng văn ở một giai đoạn dài hoặc ở nhiều tác giả, nhiều tác phẩm. Nếu đề có thêm yêu cầu về nghị luận xã hội thường là bài, đoạn văn ngắn thuộc phần 1. Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề, rèn luyện kĩ năng cho học sinh, tôi thường tập trung vào một số dạng đề cơ bản sau: Đề kiểm tra khả năng cảm thụ một đoạn thơ, văn trong tác phẩm văn học. Đề kiểm tra kiến thức về lí luận văn học và cảm thụ tác phẩm. Đề rèn luyện kĩ năng so sánh văn học. Đề tổng hợp kiến thức về một vấn đề văn học ở nhiều tác phẩm, nhiều tác giả, một giai đoạn lịch sử. Đề nghị luận xã hội. - Rèn luyện kĩ năng phân tích đề: Đây là một trong những khâu quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả thi HSG. Giáo viên cần cho học sinh làm quen với nhiều dạng đề thi HSG, đặc biệt là những dạng đề có cách diễn đạt có thể gây ngộ nhận hoặc có thể hiểu yêu cầu đề không thấu đáo. Sau khi đã nhận diện đúng yêu cầu đề, việc xác định thao tác nghị luận chỉ cần củng cố và hệ thống lại. Điều cần lưu ý với học sinh là dù đề thi HSG có yêu cầu hay không, học sinh vẫn phải vận dụng nhiều thao tác nghị luận khác nhau trong một bài làm. Điều quan trọng là xác định thao tác nào là chính, thao tác nào là bổ trợ. Nắm chắc yêu cầu này, học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lí và khoa học cho bài viết. - Rèn kĩ năng lập dàn ý. Bước đầu tiên trong rèn kĩ năng lập dàn ý tôi thường hướng dẫn học sinh phải lập dàn ý sơ lược theo yêu cầu: + Đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết. + Xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của mỗi luận điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của bài. + sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học. Những nội dung này học sinh được suy nghĩ trong vòng 25 – 30 phút, sau đó học sinh sẽ trình bày ngắn gọn bằng hình thức nói, cuối cùng giáo viên mới chữa hoàn chỉnh. ở bước này, phần làm việc của học sinh ở nhà là tiếp tục viết thành văn phần mở bài, kết bài và các câu, đoạn chuyển ý. Kĩ năng này nếu được làm một cách ráo riết và nghiêm túc sẽ hình thành được ở học sinh khả năng chủ động và độc lập tư duy trong học tập. Bài viết của các em sẽ đủ ý và mạch lạc. Đây cũng là một trong những biểu hiện của tính khoa học ở một bài văn HSG. Thực tế cho thấy, các em trong đội tuyển HSG có khả năng nhận diện đề, lập dàn ý khá nhanh và tự tin; có ý thức lập hệ thống luận điểm trước khi viết bài. - Rèn luyện kĩ năng viết văn. Đây cũng là kĩ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm hợp lí, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài viết hay, học sinh phảI biết trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch lạc, sáng sủa và có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào chính bài viết của học sinh. Khi giảng dạy và bồi dưỡng các dạng bài văn nghị luận ở chương trình Ngữ Văn lớp 8, nhằm rèn kĩ năng viết văn cho học sinh, tôi thường tiến hành theo các hình thức: + Viết thành văn một đoạn ý:- đoạn văn giải thích; - đoạn văn chứng minh một luận điểm trong bài( thường là luận điểm chính); - đoạn văn bình luận nâng cao. + Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên chữa ( khoảng 2, 3 bài/ tuần). + Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp trong thời gian qui định ( 90 – 120 – 180 phút). Yêu cầu trước hết đối với học sinh là phải diễn đạt lưu loát, rõ ý; chữ viết sạch sẽ, dễ đọc, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Từ đó, yêu cầu học sinh phải viết được những đoạn văn hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ, có giọng văn riêng, thể hiện được dấu ấn, phong cách của người viết. Trong kĩ năng viết bài văn hoàn chỉnh, có thực hành viết bài văn cảm nhận một đoạn trích trong tác phẩm, bài văn cảm nhận một vấn đề của tác phẩm hoặc cảm nhận một tác phẩm trọn vẹn về nội dung nghệ thuật. Kĩ năng này phải được tiến hành thường xuyên bằng hình thức ra đề cho các em làm thêm ở nhà, giáo viên tranh thủ chấm bài và chữa kĩ cho các em. 3.5. Chấm và chữa bài: Đối với các em HSG, khi chấm bài, giáo viên phải chỉ ra được điểm mạnh, điểm yếu cơ bản của mỗi bài, theo dõi và động viên kịp thời mức độ tiến bộ của mỗi học sinh qua từng bài viết. Khi chấm, giáo viên phải chỉ ra các lỗi cụ thể về dùng từ, viết câu, triển khai ý. Phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân và định hướng cách chữa để học sinh có thể tự sửa chữa các lỗi của mình. Và để tạo hứng thú, giáo viên có thể tổ chức hướng dẫn học sinh đọc và chữa bài cho nhau. Sau đó giáo viên cũng cần phải lưu ý đến những yêu cầu có tính nguyên tắc đối với bồi dưỡng học sinh giỏi đó là: - Bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn ngữ văn phải gắn liền với giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh Bồi dưỡng học sinh giỏi là phải làm cho học sinh ý thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học đặt trong mối quan hệ biện chứng với các môn học khác. Bồi dưỡng học sinh giỏi là phải liên tục và có hệ thống Bồi dưỡng học sinh giỏi là phải phát huy được tối đa khả năng tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh III. KẾT QUẢ Qua thực tế giảng dạy và bồi dưỡng HSG Ngữ văn lớp 8, 9 ở trường THCS Gio Hải trong thời gian gần đây như sau: Kết quả bồi dưỡng đội tuyển HSG Ngữ Văn 8, 9 được đánh giá qua kì thi chọn HSG Ngữ Văn 8, 9 Huyện Gio Linh: - Năm học 2014 – 2015 + Tổng số học sinh dự thi: 6 HS + Tổng số HS đạt giải: 4 giải (2 HS đạt giải Nhì Quốc Gia trong cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết tình huống thực tiễn, và 2 giải văn hóa cấp Huyện) - Năm học 2015 – 2016 (Tính đến thời điểm hiện tại) + Tổng số HS dự thi: 6 HS + Tổng số HS đạt giải: 3 HS (2 giải KK và 1 giải Ba). + 2 em có sản phẩm dự thi về “Vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết tình huống thực tiễn” được phòng đánh giá cao, là 1 trong 10 sản phẩm được chọn dự thi Tỉnh. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ *Về phía học sinh: - Phải say sưa, chăm chỉ, biết nghe lời giáo viên hướng dẫn,có kiến thức hệ thống, học đến đâu nắm chắc và vận dụng thực hành đến đó. Tập nói, tập viết nhiều để sửa lỗi, đọc nhiều để học tập cách diễn đạt và mở rộng kiến thức, phải suy nghĩ sâu, có sự liên tưởng nhạy cảm, có sáng tạo khi cần thiết. *Về phía giáo viên: - Phải say mê chuyên môn, có trách nhiệm cao, chịu khó nghiên cứu tìm tòi tài liệu nâng cao, chủ động kiến thức khi lên lớp, phải biết sử dụng phương pháp linh hoạt. Sau mỗi chuyên đề cần ôn luyện kiểm tra thường xuyên ( kiểm tra miệng, viết để sửa lỗi về câu, cách dùng từ diễn đạt, lập luận). Thường xuyên học hỏi bạn bè, đồng nghiệp để có kiến thức sâu rộng, phải có tủ sách nâng cao. 2. Kiến nghị: -Nhà trường cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất; bố trí đầu tư quĩ thời gian cho thầy trò làm việc; sắp xếp thời gian biểu hợp lí, cân đối; khen chê kịp thời. Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện bồi dưỡng HSG của bản thân tôi được đúc rút từ thực tế giảng dạy trong nhiều năm qua. Thiết nghĩ, việc phát hiện và bồi dưỡng HSG nếu đầu tư một cách thích đáng và tiến hành một cách bài bản, chắc chắn kết quả sẽ khả quan hơn. Mà kéo theo đó là hứng thú học văn sẽ phần nào được cải thiện. Nhưng với tôi, đó là những điều tôi tâm đắc và đã có được những thành công nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của các đồng nghiệp để chúng ta có thể làm tốt công việc này trong tinh thần đổi mới ra đề và đánh giá môn Văn hiện nay của Bộ giáo dục. Xin chân thành cám ơn! Gio Hải, ngày 15 tháng 05 năm 2016 XÁC NHẬN CỦA Tôi xin cam đoan sáng kiến THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ kinh nghiệm trên là của bản thân tôi, không sao chép của bất kì ai. Tài liệu tham khảo 1. Nghiên cứu lí luận và phương pháp dạy học văn của Mai Xuân Miên. 2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp của Trần Thị Diệu Nữ 3. Giáo trình Phương pháp dạy học văn của Phan Trọng Luận 4. Sách giáo viên tham khảo khối 6,7,8,9. 5. Sách tham khảo Ngữ văn các khối 6,7,8,9.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phat_hien_va_boi_duong_hsg_ngu_van_o_t.docx