Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 tại Trường THCS Lệ Chi

“Văn học là nhân học”. Đúng vậy, văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong phát triển tư duy của con người. Bộ môn Ngữ Văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ Văn sẽ tác động tích cực tới tất cả các môn học và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống.

Môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là không thể thiếu để học sinh rèn kĩ năng viết văn. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái mà mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói…” (Trong “Dạy Văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”- Nghiên cứu Giáo dục, số 28, ngày 11/1/1973).

Trong giảng dạy môn Ngữ Văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người. Nhưng học sinh không hoặc chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” (Ngữ Văn 7, tập một). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. (Ví dụ như văn miêu tả hay văn tự sự chẳng hạn). Chính vì thế, kết quả của các bài kiểm tra và điểm trung bình môn Văn của các em còn thấp. Thực tế đó quả là đáng lo ngại. Vậy thực trạng vấn đề này ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh lớp 7? Đó là những trăn trở của tôi rất muốn chia sẻ với đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này.

doc 16 trang Trang Lê 16/03/2025 210
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 tại Trường THCS Lệ Chi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 tại Trường THCS Lệ Chi

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 tại Trường THCS Lệ Chi
c em cách viết nhật kí để giúp các em nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm đẹp cho hiện tại và tương lai.
* Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách tạo cảm xúc khi làm văn biểu cảm:
 Văn là cuộc sống, vì thế muốn có cảm xúc để viết văn biểu cảm thì người viết cần có cảm xúc với chính cuộc sống đời thường xung quanh mình. Giáo viên nên khơi gợi cảm xúc của học sinh bằng cách nói chuyện, gợi cho các em cơ hội nói lên mình thấy thế nào trước vật ấy, người ấy, sự việc ấy? Ví dụ khi biểu cảm về loài cây, tôi thường hỏi các em thích cây nào, vì sao em thích, em đã đối xử với nó như thế nào? Nếu các em không trả lời được, tôi sẽ gợi ý cho các em: Vẻ đẹp, lợi ích, kỉ niệm gắn bó với cây đó. Từ đó để các em nảy sinh tình cảm tích cực về một loài cây mà mình biểu cảm. Còn khi biểu cảm về người, tôi hỏi các em: Ở địa phương các em hiện nay có một số người lang thang cơ nhỡ và có vấn đề về thần kinh, các em nghĩ gì khi gặp họ? Nếu các em nói: sợ họ, ghét họ, thấy ghê tởmhay có em nói thương họ. Tôi nói tiếp với các em rằng: Em hãy đặt địa vị những người đó là bố mẹ, cô dì, chú bác, anh em của mình thì sao? Các em nghĩ một lát rồi đều nói là rất thương họ. Đồng thời tôi cũng sẽ chia sẻ với các em tôi nghĩ gì, muốn làm gì khi gặp họ. Từ đó các em đã nảy sinh tình cảm rất tích cực. Hoặc trước khi viết bài về mẹ, tôi đã chia sẻ cảm xúc của tôi khi mẹ mình bị bệnh; rồi những cảm xúc của một học sinh khi có mẹ chẳng may qua đời Tất cả những chia sẻ ấy tôi đã phần nào “đọc” được tâm trạng, cảm xúc của các em. Những điều đó góp phần đánh thức tâm hồn và gieo vào trái tim bé bỏng của các em nhiều tình cảm tích cực. Tôi cũng chỉ cho các em thấy tất cả điều bình dị, quen thuộc đôi khi ta không lắng lòng cảm nhận thì vô tình ta đã biến trái tim mình dần chai sạn, khô cằn. Ai biết nuôi dưỡng cảm xúc là cách hiệu quả để có thể làm tốt văn biểu cảm.
* Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách thể hiện cảm xúc khi làm văn biểu cảm.
a. Biểu cảm trực tiếp:
 Đây là cách diễn đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết một cách rõ ràng bằng các từ ngữ, câu chữ chứ không phải thông qua các hình thức biểu hiện khác. Đây là cách dùng phổ biến trong văn biểu cảm. Học sinh vận dụng cách biểu cảm trực tiếp vào bài viết cũng dễ dàng hơn hình thức biểu cảm gián tiếp. Vì nó dễ nhận biết, dễ thực hiện và dễ tác động đến tình cảm của người đọc nhất.
 Những nếu vận dụng không khéo, bài viết của các em dễ rơi vào tình trạng gượng ép, miễn cưỡng, không chân thật. Chính vì lẽ đó, các em cần chú ý kĩ năng vận dụng cách tạo cảm xúc sao cho tự nhiên, chân thực. Hình thức biểu cảm trực tiếp thường sử dụng các cách tạo cảm xúc sau:
- Sử dụng từ ngữ biểu cảm:
Ví dụ 1: “ Tôi phập phồng cùng những nụ hoa đang bắt đầu hé nở. Tôi mê mẩn trước những bông hoa đang tỏa bừng rực rỡ. Tôi ngây ngất trước những hàng hoa đang lặng lẽ đưa hương, như muốn ủ vào đất, ướp lên trời, như muốn len vào hồn người. Tôi ngạc nhiên cùng mảnh đất ấy, âm thầm và lặng lẽ, giản dị và lớn lao, suốt đời đất ở dưới chân người bất ngờ bung lên tỏa bao sắc màu”
(Trích Loài hoa tôi yêu- Hạ Huyền)
Nhận xét: Trong đoạn văn trên, để bộc lộ cảm xúc của mình về các loài hoa, tác giả sử dụng những động từ chỉ trạng thái cảm xúc một cách tự nhiên và say mê.
=> Cách sử dụng những động từ chỉ cảm xúc, trạng thái của con người.
Ví dụ 2: “Hằng năm, cứ vào cữ hạ sớm này, người Hà Nội lại được hưởng những cơn mưa lá sấu vàng ào ạt rơi trong hương sấu dìu dịu thơm thơm. Hương lá sấu dịu dàng, ướp cả bầu không khí tinh khôi khiến ta muốn hít thật sâu cho căng tràn lồng ngực Những mảng hoa hình sao màu trắng chao nghiêng trong gió, đậu xuống mái tóc các cô gái lấm tấm khắp cả mặt đường”
(Tạ Việt Anh)
Nhận xét: Trong đoạn văn trên, để bộc lộ cảm xúc của mình về cây sấu, hoa sấu, tác giả đã sử dụng những từ láy gợi tình yêu, sự gắn bó với cây sấu Hà Nội. Qua đó bộc lộ tình yêu Hà Nội của người viết.
=> Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm đặc biệt dùng từ tượng thanh, tượng hình.
- Dùng từ cảm thán, câu cảm thán:
Ví dụ 1: “Bố ơi! Bố chữa làm sao được lành lặn đôi bàn chân ấy: đôi bàn chân dầm sương dãi nắng đã thành bệnh”.
(Trích Tuổi thơ im lặng- Duy Khán)
Ví dụ 2: “Quê tôi lắm nắng nhiều mưa Chao ôi! Sức sống của cây cau sao mà bền bỉ, mãnh liệt như vậy!”
Nhận xét: Trong hai ví dụ trên, tác giả bộc lộ cảm xúc trực tiếp bằng từ cảm thán và câu cảm thán.
b. Biểu cảm gián tiếp:
 Là cách biểu đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết thông qua các hình thức biểu hiện khác như: dùng biện pháp tu từ ẩn dụ, tượng trưng Ngoài ra cũng có thể diễn đạt qua cảnh vật, con người có liên quan đến cảm nghĩ; trong trường hợp này, họ thường sử dụng yếu tố tự sự, miêu tả để khêu gợi cảm xúc.
- Dùng biện pháp tu từ ẩn dụ tượng trưng:
Ví dụ: “Thân gầy guộc, lá mong manh
 Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi? ()
 Nòi tre đâu chịu mọc cong
 Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường
 Lưng trần phơi nắng phơi sương
 Có manh áo cộc tre nhường cho con”.
(Trích Tre Việt Nam- Nguyễn Duy)
Nhận xét: Nhà thơ Nguyễn Duy đã lấy cây tre làm hình ảnh ẩn dụ để thể hiện cảm nghĩ về con người Việt Nam. Bằng cách này, tác giả tạo ra hai lớp nghĩa cho bài thơ: Ca ngợi đặc điểm của cây tre; ca ngợi phẩm chất của con người Việt Nam kiên cường bất khuất nhưng giàu lòng yêu thương, nhân hậu.
- Dùng yếu tố tự sự, miêu tả:
+ Yếu tố miêu tả:
Ví dụ: Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Người ta nói: “Đấy là bàn chân vất vả: Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm”
(Trích Tuổi thơ im lặng- Duy Khán)
Nhận xét: Qua việc miêu tả bàn chân của bố, tác giả đã thể hiện lòng thương cảm, thấu hiểu sự vất vả, nhọc nhằn của bố. Tác giả đã truyền đến người đọc tình yêu với người cha sâu sắc.
+ Yếu tố tự sự:
Ví dụ: “Bố đi chân đất. Bố đi dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước, xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm trên cành cây, ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm”.
(Trích Tuổi thơ im lặng- Duy Khán)
Nhận xét: Đoạn văn đã kể lại những việc bố làm nhưng không nhằm mục đích để kể mà để thể hiện tình cảm của con với bố.
 Như vậy các yếu tố miêu tả và tự sự có tác dụng là phươngg tiện khơi gợi cảm xúc, làm cho cảm xúc được thăng hoa.
- Dùng câu hỏi tu từ và các biện pháp nghệ thuật khác:
Ví dụ: “Nước biển Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến vậy?() Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước biển chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết thanh minh? Đúng một phần thôi. Bời vì con sóng đang dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư mã nghe đàn tì bà trên con sông Giang Châu thì có đúng không? Chưa được ư? Thế thì nó xanh như một màu áo cưới, được không? Hay là nói thế này: Nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người còn phải viết vào thân tre? Nghe hơi trừu tượng phải không?...”
(Trích Cô Tô- Nguyễn Tuân)
Nhận xét: Tác giả thể hiện sự bất ngờ, sự say mê, thích thú của mình trước vẻ đẹp kì diệu của nước biển Cô Tô qua các hình ảnh so sánh, câu hỏi tu từ. 
- Dùng các kết cấu trùng điệp, điệp từ, điệp ngữ:
Ví dụ: “Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa nhiều ngang trái. Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở”.
(Trích Sài Gòn tôi yêu- Minh Hương)
Nhận xét: Tác giả đã bộc lộ tình yêu của mình với Sài Gòn nồng nhiệt, sâu sắc qua biện pháp tu từ điệp từ, điệp cấu trúc. Giọng văn tha thiết nhịp nhàng cũng chính là do các biện pháp này tạo ra. Rõ rang người đọc đã rất ấn tượng với cảm xúc của tác giả.
 Vậy là nếu giáo viên hướng dẫn học sinh cách biểu cảm cụ thể, giúp học sinh học biểu cảm theo những ví dụ cụ thể thì các em sẽ hiểu và nhanh chóng nắm bắt được kĩ năng biểu cảm. Phân biệt văn tự sự, miêu tả với việc dùng tự sự, miêu tả để biểu cảm, chứ không nhằm biểu cảm thành kể và tả.
2. Đối với học sinh:
 Để học tốt văn biểu cảm, cần biết tạo nên cảm xúc, bởi cảm xúc là sự cảm thụ của trái tim, bằng tấm lòng và tình cảm của người học. Các em hãy đến với giờ Văn bằng trái tim, bằng tấm lòng của mình thì những cung bậc tình cảm vui buồn, yêu ghét, giận hờn từ bài giảng của thầy cô sẽ đi vào tấm lòng của các em. Các em sẽ biết thương cảm những số phận bất hạnh, biết căm ghét sự bất công, cái ác; biết yêu thiên nhiên hoa cỏ, yêu quê hương đất nước. Và hiểu “Người với người sống để yêu nhau”- Tố Hữu.
 Để làm tốt một bài văn biểu cảm, khi làm bài, trước tiên các em cần định rõ cho mình các yêu cầu cụ thể để biến đề tài chung cho cả lớp thành đề bài của riêng mình. Sau đó cần xác định rõ những tình cảm, cảm xúc, những rung động nào là mạnh mẽ, là riêng của mình. Hãy tập trung trình bày những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua miêu tả cảnh vật, qua một câu chuyện) Các em cần chú ý đến sự riêng biệt, độc đáo của nội dung hơn là ham viết dài. Đồng thời cần lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh (so sánh ví von, so sánh ngầm) thích hợp để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình. Điểm quan trọng nhất để làm bài văn biểu cảm đạt kết quả cao là tự bản thân các em hãy tích cực đọc sách, tích cực tham gia các hoạt động trong nhà trường, ngoài xã hội để có thêm vốn sống, vốn hiểu biết. Các em nên viết nhật kí hoặc những bài viết ngắn ghi nhanh cảm xúc của mình trong cuộc sống hằng ngày. Qua đó, các em cần chú ý rèn luyện cho tâm hồn mình trở nên chứa chan những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương, hờn giân, nhớ nhung dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ cao thượng về tình bạn, tình yêu thương cha mẹ, thầy cô, yêu quê hương đất nước Đó cũng là cái gốc to, là những chùm rễ sâu cung cấp chất bổ dưỡng cho “cây” văn biểu cảm luôn xanh tươi, dạt dào, đơm hoa kết trái.
3. Hiệu quả của sáng kiến:
 Qua rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên, tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở môn Ngữ Văn của lớp 7C- năm học 2015- 2016 đã được nâng cao hơn năm trước rõ rệt. Ở phương diện là giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin, say mê với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói “nghiệp Văn là nghiệp khổ”. Nhưng tôi lại không thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy mình sung sướng, hạnh phúc biết bao khi được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Đối với các em học sinh, bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn Văn, biết bộc lộ cảm xúc của mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc. Số lượng học sinh có kĩ năng làm văn biểu cảm tốt tương đối nhiều. Cụ thể, tôi xin đưa ra bảng thống kê điểm trung bình môn Ngữ Văn- Học kì I- năm học 2015- 2016 của lớp 7C như sau: (Sĩ số: 34 học sinh):
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Số lượng (%)
Số lượng (%)
Số lượng (%)
Số lượng (%)
Số lượng (%)
11 (32,3)
13 (38,3)
10 (29,4)
0
0

4. Ứng vào thực tiễn:
4.1. Bài học kinh nghiệm:
- Cần thực sự đầu tư tìm tòi hem các ví dụ cụ thể, gần gũi với học sinh, 
- Đồng thời lấy luôn những ví dụ bài làm tốt của học sinh thì sẽ thiết thực hơn rất nhiều.
- Chú ý hơn nữa vào việc phân loại học sinh.
- Nên có khảo sát thực nghiệm về thái độ của học sinh với việc học văn biểu cảm trước và sau khi vận dụng đề tài.
4.2. Ý nghĩa:
 Đây là một vấn đề trọng tâm của chương trình Tập làm văn ở lớp 7, vì thế nếu áp dụng tốt dạy học làm văn biểu cảm như kinh nghiệm của tôi chia sẻ thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn ở cấp THCS. Từ đó rèn kĩ năng hành văn cho các em để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn.
4.3. Tính khả thi và khả năng áp dụng triển khai của sáng kiến:
 Vì đây là sáng kiến nghiên cứu đề tài rất gần gũi, thiết thực đối với học sinh nên có thể áp dụng với tất cả các khối lớp 7 ở bậc THCS. 
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
 Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Ngữ Văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và học văn biểu cảm. Từ đó, tôi rất hi vọng kết quả học Văn của các em sẽ tốt hơn, các em sẽ yêu thích, ham mê môn học nhân văn này hơn nữa.
2. Khuyến nghị:
2.1. Đối với phụ huynh:
- Quan tâm sát sao hơn, đầu tư nhiều hơn về thời gian, điều kiện đến việc học tập của con em mình.
- Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; gần gũi, chia sẻ, tư vấn, định hướng về cảm xúc, tâm hồn với con.
- Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn Văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập cũng như tâm lí của con em mình.
2.2. Đối với Ban giám hiệu:
- Tổ chức các buổi ngoại khóa về môn Ngữ Văn cho học sinh nhằm tạo hứng thú, nâng cao chất lượng dạy học môn học này.
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên để đãi ngộ kịp thời, hợp lí đối với giáo viên giảng dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém môn Ngữ Văn.
- Đầu tư trang thiết bị, giáo cụ trực quan, đồ dùng dạy học, tư liệu, tài liệu để hỗ trợ giáo viên giảng dạy tốt môn Văn có hiệu quả.
2.3. Đối với địa phương:
- Quản lí chặt hơn những điểm kinh doanh quán internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
 Trên đây, tôi đã nêu một số ý kiến về việc dạy học môn Ngữ Văn có hiệu quả. Tôi rất mong nhận được những đóng góp, ý kiến của các đồng nghiệp để những nội dung trên của tôi được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 9 tháng 4 năm 2016
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ Văn 7, tập một.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004- 2007) môn Ngữ Văn- quyển 1 và 2- NXB Giáo dục.
3. Phương pháp dạy học Ngữ Văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và tích cực- Đoàn Thị Kim Nhung- NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.
4. Dạy học Tập làm văn ở THCS- Nguyễn Trí- NXB Giáo dục.
5. Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ Văn THCS- Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hoàn- NXB Giáo dục

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_lam_van_bieu_cam_cho_hoc_s.doc