Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ Văn cho học sinh Lớp 6
Chữ viết của học sinh hiện nay đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm của các nhà trường. Thực tế cho thấy đa số học sinh viết chữ xấu, sai lỗi chính tả nhiều làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của các em. Đã không ít thầy cô giáo phải thốt lên: “Học sinh bây giờ viết chữ tệ quá!”. Vì thế trong các kỳ thi, tỷ lệ môn Ngữ văn đạt yêu cầu thấp hơn một số môn học khác. Điều đó chứng tỏ yếu tố chữ viết có vai trò rất quan trọng và phần nào quyết định chất lượng học tập của các em. Đã có nhiều em nắm kiến thức tương đối tốt nhưng do chữ viết xấu, sai lỗi nhiều cho nên điểm không cao (thậm chí có khi không đạt yêu cầu) và vì thế đã không ít trường hợp đáng tiếc xảy ra (các em đó không đủ điều kiện đạt danh hiệu học sinh giỏi hoặc học sinh tiên tiến).
Rồi thực tế ngoài xã hội, nhiều người có học vấn, có bằng cấp hẳn hoi nhưng vẫn còn trường hợp chữ viết xấu, khó đọc và sai lỗi chính tả rất nhiều. Từ thực tế đó, là người làm công việc dạy chữ, tôi thấy mình có một phần trách nhiệm. Mỗi khi chấm vở và chấm bài cho các em, tôi rất buồn, vì vậy tôi đã mạnh dạn đi vào vấn đề nan giải, đang là mối lo cho nhiều nhà trường và xã hội trong những năm gần đây. Tôi đã tiến hành tìm những biện pháp cụ thể, thích hợp để luyện chữ viết cho các em nhằm ngăn ngừa, uốn nắn và dần dần chấm dứt tình trạng viết chữ xấu và sai lỗi chính tả cho học sinh và bước đầu đã có hiệu quả.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ Văn cho học sinh Lớp 6

hụ đạo thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. Ngoài ra, đối với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài để củng cố kiến thức và ôn luyện về chữ viết. Muốn chữ viết của các em ngày càng tiến bộ thì điều chủ yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp thời, khen, chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết cho các em. Việc chấm chữa bài cho các em là một công việc rất vất vả vì đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì người giáo viên cần phân bố thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà tôi đã cố gắng thực hiện việc chấm chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các em luyện viết và làm bài, sửa lỗi nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Số lượng học sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tôi rất mừng bởi những công sức mà thầy và trò đã bỏ công luyện tập. Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “nên” và “không nên” như sau: - Nên: + Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét (các em hay viết mất nét chữ l, g, h) + Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng. + Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng. - Không nên: + Viết hoa tuỳ tiện. + Viết thiếu nét nguệch ngoạc. Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ viết, tôi đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn những bài lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi kiểm tra chặt chẽ việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ có hình thức uốn nắn phù hợp hơn. Chính vì vậy mà các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu luyện chữ, thể hiện ở chỗ chữ viết đã ít lỗi và rõ ràng hơn. Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức uốn nắn phù hợp đối với những học sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em làm trên bảng, khi chữa bài bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể thiếu được việc chữa lỗi về chữ viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em nhận xét. Hay các giờ trả bài cũng là cơ hội để tôi rèn chữ cho các em học sinh. Sau khi trả bài, tôi yêu cầu học sinh xem những lỗi ở bài làm và sửa chữa lại cho đúng vào vở luyện chữ của mình. Nên các em cũng có thể tự đánh giá lẫn nhau về mặt chữ viết: Chữ viết của bạn đã đẹp và cẩn thận chưa? Bài làm có mắc lỗi nào không? Muốn sửa những lỗi đó, ta phải sửa bằng cách nào? Từ đó, học sinh nhận thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho chính mình. * Đối với giáo viên: Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp, nghĩa là: Phát âm chuẩn tiếng phổ thông, vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ dẫn đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và phát âm chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào việc đọc và phát âm của các em, nếu em nào đọc sai,tôi sẽ uốn nắn luôn. Cùng với việc làm đó, tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng ở địa phương các em hay mắc phải để chú ý sửa cho các em. Ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông đợi/ trông đợi; sâu đó/ sau đó; lông lanh/ long lanh; ôi nhiễm/ ô nhiễmvà chú trọng sửa những lỗi này để khi các em viết bài của mình thì chú ý và có thể sửa được những lỗi mình mắc phải. Để rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ, người giáo viên khi viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong các bài luyện tập, tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu kiểm tra những lỗi của bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận biết được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối cùng tôi thu bài viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết lại như lần trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng cách: Trong một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm hai và đặc biệt là nhóm ba yêu cầu sửa chữ thiếu nét xong mới yêu cầu sang lỗi khác Việc này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả trong giờ học chính khoá trên lớp. Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa kết hợp luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa chữa cho phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh. Đối với học sinh, phải chú ý vào những lỗi để tự uốn nắn và sửa chữ cho chính mình nhằm làm chữ viết ngày càng đẹp hơn và không sai lỗi chính tả. Như các bạn đã biết, chương trình Ngữ Văn lớp 6 chỉ có hai tiết ít ỏi nằm trong Chương trình địa phương- phần Tiếng Việt- Rèn luyện chính tả. Ngoài những biện pháp trên, tôi còn cố gắng rèn chính tả cho học sinh trong hai tiết học này và trong những giờ luyện tập phân môn Tiếng Việt: Ví dụ: Ở tiế 70 của học kì I, tôi chủ yếu rèn cho học sinh lỗi sai chính tả các phụ âm đầu, thường viết sai: * Phân biệt l / n: Lỗi sai phổ biến của miền Bắc (cả nói và viết): - Về mặt láy âm: l và n đối lập nhau: + L láy âm rộng rãi trong Tiếng Việt: láy âm với rất nhiều âm đầu (lõm bõm, la cà, lạch cạch, lỉnh kỉnh, liên miên, lạo xạo, lăn tăn, lởn vởn, lom khom, lơ ngơ). + N không láy âm với âm đầu nào khác mà chỉ hiệp vần đầu thôi: ( no nê, nao núng, nườm nượp, náo nức, nuôi nấng). + Không có hiện tượng l láy với n. + N chỉ láy với gi và với nguyên phần vần mà không có âm đầu: (gian nan, gieo neo, giãy nảy, áy náy, ảo não). - Về từ đống nghĩa: Có khoảng 40 từ đồng nghĩa thành cặp l- nh: (lài- nhài, lỡ- nhỡ, lầm- nhầm). * Phân biệt ch/ tr: Riêng ở miền Bắc khi nói không phân biệt rõ ràng. - Khả năng kết hợp: + Ch đứng trước vần: oa, oe, oăt, ăt còn tr thì không: (choàng khăn, vàng chóe, loắt choắt, chắt lọc). - Về mặt láy âm: ch và tr không láy âm với nhau, chỉ điệp âm đầu: (trơ trụi, trì trệ, trục trặc, trầm trồ, trằn trọc; chập choạng, chững chạc, chắt chiu, chăm chú, chênh chếch) * Phân biệt s/ x: Ở miền Bắc khi nói không phân biệt rõ ràng. - Khả năng kết hợp: + S không dứng trước vần: oăn, oe, uê. Còn x thì kết hợp được: ( xuê xoa, xoắn thừng, xun xoe) - Về láy âm: + s và x không láy âm với nhau mà chỉ hiệp vần đầu: (sung sướng, sỗ sàng, sững sờ; xao xuyến, xàm xỡ, xấp xỉ). + X láy âm với âm đầu khác: liểng xiểng, bờm xờm, xoi mói, xích mích, lộn xộn). * Phân biệt d/ r/ gi: - Khả năng kết hợp: + R và gi không đứng trước vần: oa, oăn, uê, uy. Còn d thì kết hợp được (dọa nạt, dây thừng, hậu duệ, duy trì). - Về mặt láy âm: + R, gi, d đều không láy âm với nhau mà chỉ điệp âm đầu. + R thường tạo thành từ láy mô phỏng âm thanh: rả rích, rì rầm, rào rào, rên rỉ, róc rách; còn d và gi thì không. + D láy âm với l nhiều: lai dai, lim dim, lò dò + R láy âm với l: lầm rầm, lắc rắc, leng reng; ngoài ra r còn láy âm với b, k, c: (bứt rứt, bịn rịn, ) + Còn gi thì không. Sau đó tôi cho học sinh bài tập thêm để về nhà rèn luyện nhằm phân biệt các phụ âm đầu trên. Từ đó các em viết đúng và dùng từ sẽ chính xác hơn. Vì thời gian rèn chính tả ở trên lớp có hạn nên tôi phô-tô tài liệu cho các em về nhà làm. Còn về tiết 89 ở học kì II, ngoài nội dung kiến thức bài học, tôi còn lập sổ tay chính tả để cung cấp cho học sinh. Sau đây, tôi xin minh họa một phần trong sổ tay chính tả (phân biệt l/ n) mà tôi đã cung cấp cho các em: Stt Từ có âm đầu là l Stt Từ có âm đầu là n 1 la liệt le lói 1 nài nỉ nương náu 2 la liếm lem luốc 2 não nùng áy náy 3 là là lém lỉnh 3 nạt nộ nằng nặng 4 là lạ lén lút 4 này này ẩn nấp 5 là lượt leo lẻo 5 này nọ nắn nót 6 lả lướt lịch lãm 6 nấu nướng nịnh nọt 7 lá lẩu loang loáng 7 nây nẩy nặng nợ 8 lạ lẫm long lanh 8 nể nang nơi nơi 9 lạc loài lỏng lẻo 9 nèn nã nơm nớp 10 lạc lõng lúc lỉu 10 nỉ non nòng nọc 11 lai láng lưu loát 11 niềm nở 12 lam lũ la lối 12 nói năng 13 lanh lẹ lanh lảnh 13 non nước 14 lành lạnh lão luyện 14 nõn nà 15 lảnh lót lắc lư 15 nóng nảy 16 lạnh lẽo lặng lẽ 16 nóng nực 17 lạnh lùng lăn lóc 17 nôn nào 18 lau lách lây lan 18 nôn nóng 19 làu làu len lén 19 nồng nàn 20 láu lỉnh lề lối 20 nồng nặc 21 lắm lắm lê la 21 nũng nịu 22 lăn lộn lưu lạc 22 núng nính 23 lắt lay liến láu 23 nung núc 24 lắt léo lẳng lặng 24 nuôi nấng 25 lâm li lảnh lót 25 nức nở 26 lầm lì lầy lội 26 nứt nẻ 27 lầm lỗi lả lơi 27 nườm nượp 28 lầm lỡ 28 na ná 29 lẫm liệt 29 não nề 30 lấm láp 30 náo nức 31 lấm lét 31 nắc nẻ 32 lần lượt 32 nặc nô 33 lẫn lộn 33 năn nỉ 34 lấp lánh 34 nặng nề 35 lấp ló 35 nây nây 36 lấp loáng 36 nem nép 37 lấp lửng 37 nen nét 38 lập lòe 38 nề nếp 39 lật lọng 39 nôm na 40 lầu lầu 40 nuột nà 41 lẫy lừng 41 nể nang Ngoài ra tôi còn chú ý rèn chính tả cho các em trong các giờ luyện nói ở trên lớp. Điều đó giúp các em không chỉ khi nói mà còn khi viết để các em có vốn tiếng Việt chính xác hơn. Song song với đó, ở các giờ học phân môn văn bản, tôi cũng rất coi trọng phần đọc của các em; trong giờ học phân môn Tiếng Việt, ở mỗi phần luyện tập đều có bài tập cuối cùng là rèn nghe- viết chính tả nên tôi đều chú ý nhắc nhở học sinh làm bài. Chính vì vậy mà gần hết năm học này, tôi nhận thấy việc làm của tôi đã có tín hiệu đáng mừng. 5. Kết quả ngiên cứu: Cứ bằng các biện pháp như trên, khi thì cách này, khi thì cách khác, tôi liên tục luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau: Cuối học kì I năm học 2014-2015, các em đã được thầy cô giáo dạy lớp 6A khen ngợi về chữ viết tương đối đẹp, dễ đọc, rõ ràng, ít lỗi chính tả và trình bày sạch, đẹp. Có được kết quả như vậy phải kể đến sự kiên trì, quyết tâm luyện tập của học sinh dưới sự kiểm tra chặt chẽ, chỉ bảo ân cần, nhẹ nhàng của giáo viên và sự giám sát kiên quyết của các bậc phụ huynh. Học kì I kết thúc rồi sang giữa học kì II, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về chữ viết của các em theo bảng sau: Bảng khảo sát chữ viết của học sinh - lớp 6A (Năm học: 2014- 2015) (Sĩ số: 36 học sinh: 22 nam; 14 nữ) Nhóm Đầu năm Giữa kì I Cuối kì I Giữa kì II Ghi chú Số lượng Tỉ lệ(%) Số lượng Tỉ lệ(%) Số lượng Tỉ lệ(%) Số lượng Tỉ lệ(%) 1 10 27,7 12 33,2 13 36,1 15 41,7 2 16 44,6 16 44,6 17 47,2 16 44,6 3 10 27,7 8 22,2 6 16,7 5 13,7 Vậy theo bảng trên, đến giữa học kì II thì: Nhóm 1: có 15 em chữ viết đảm bảo (tăng 14% so với đầu năm). Nhóm 2: có 16 em trong số những em viết vẫn còn sai lỗi chính tả. Nhóm 3: còn 5 em đã tiến bộ nhưng còn chậm (giảm 14% so với đầu năm). Những chữ còn chưa đúng phụ âm, nguyên âm là 5 em, những em này chữ viết đã có tiến bộ hơn so với đầu năm nhập học nhưng vẫn còn sai lỗi chính tả do tiếng địa phương và việc phân biệt nghĩa của các từ chưa chính xác. Thật là vui mừng khi chữ viết của các em đã dần tiến triển như vậy. Nếu cứ tiếp tục luyện chữ viết cho các em, tôi tin rằng lên lớp 9, chữ viết của các em sẽ đạt được như mong muốn. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã đề ra và áp dụng với học sinh của lớp tôi chưa có gì là mới mẻ nhưng nhờ sự kiên trì, nhiệt tình của cả thầy và trò mà kết quả chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa: Như trên tôi đã trình bày đề tài ở trên, việc rèn chữ viết cho các em không chỉ đem lại những quyển vở, những bài kiểm tra được trình bày một cách sạch, đẹp mà còn rèn cho em những đức tính không thể thiếu của những con người muốn thành công- đức tính kiên trì, nhẫn nại. Đồng thời, việc rèn chữ viết đã giúp các em trình bày bài viết của mình một cách rõ ràng nên kết quả học tập của các em ngày càng tiến bộ. Không chỉ mang lại kết quả tốt ở bộ môn Ngữ Văn mà còn những môn khác nữa. 2. Bài học Để luyện chữ viết cho các học sinh có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường cần phải: - Về phía thầy: + Phải thực sự yêu nghề, quan tâm và lo lắng chất lượng học tập của các em, đặc biệt là giáo viên bộ môn Văn, vì chữ viết của học sinh phần lớn mọi người thường qui vào chất lượng của môn Ngữ Văn. + Phải chịu khó, liên tục trong cách hướng dẫn học sinh luyện chữ và luôn giữ sự nhất quán, tránh để “đứt gánh giữa đường” vì đã có những giáo viên chú ý luyện chữ cho học sinh nhưng chỉ được thời gian không lâu là nản. Do vậy chữ viết của các em không được chăm chút nên vẫn xấu và mắc lỗi nhiều. + Phải vận dụng nhiều biện pháp linh hoạt, phù hợp, cụ thể với từng đối tượng học sinh- nhẹ nhàng khuyên bảo, tránh mạt sát, gắt gỏng vì đa số học sinh viết chữ xấu đều học yếu lại bị mắng nên dễ sinh tự ti. + Phải chấm chữa bài cẩn thận để các em nhận thấy lỗi và khắc phục lỗi của chính mình. + Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình, thường xuyên hỏi thăm, kiểm tra và đôn đốc, nhắc nhở các em học tập. - Về phía trò: + Tuy học sinh lên cấp II trọng tâm của dạy và học là ngữ pháp nhưng lỗi chính tả vẫn phải chú ý uốn, sửa cho nên yêu cầu học sinh phải rèn luyện cho mình tính cẩn thận và có ý thức khi viết bài cũng như thi cử là điều tối cần thiết và cực kì quan trọng. + Phải chịu khó, kiên trì và quyết tâm cao. + Tự giác rèn luyện chữ viết dưới sự hướng dẫn của thầy và sự nhắc nhở của cha mẹ, vì việc luyện chữ ở nhà là chính nên các em phải tự giác mới thành công được. + Không tự ái, không chán nản trong việc luyện chữ viết. + Phải có vở luyện chữ theo yêu cầu (sách in) và vở ô-li để uốn nắn và sửa chữa, vì có viết nhiều, luyện nhiều thì chữ viết mới đẹp và tránh được lỗi chính tả. Trên đây là một số biện pháp và những ý kiến gọi là bài học mà tôi đã rút ra trong một học kì rèn luyện chữ viết cho học sinh trong năm học 2014-2015. Bản thân tôi cũng đã được tiếp cận với những kinh nghiệm thực tế của bạn bè đồng nghiệp về vấn đề “Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 6”. Nhờ những biện pháp và bài học của các đồng chí đồng nghiệp kết hợp với những biện pháp và bài học của bản thân tôi cùng với sự cộng tác của các giáo viên bộ môn khác, tính cần mẫn, lòng quyết tâm của học sinh cộng với sự đồng lòng ủng hộ của phụ huynh mà chất lượng chữ viết học sinh đã có những tín hiệu khả quan. Tôi mạnh dạn viết ra đây rất mong các đồng nghiệp đóng góp y kiến để tôi hoàn thiện hơn đề tài này hơn nữa. PHẦN IV: KIẾN NGHỊ- ĐỀ XUẤT Trong quá trình xây dựng và triển khai đề tài, bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi còn được sự giúp đỡ rất nhiều của đồng nghiệp. Vì đề tài tôi thực hiện trong thời gian không nhiều nên khôngg tránh khỏi một số khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự đóng góp kiến của lãnh đạo nhà trường và tổ xã hội. Qua quá trình triển khai đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi xin có một vài kiến nghị như sau: 1. Nhà trường cần trang bị thêm các tài liệu để phục vụ nghiên cứu đặc biệt là sách chuyên ngành Ngữ Văn. 2. Cần trao đổi, phổ biến, áp dụng sáng kiến kinh nghiệm đã được cấp trên xếp loại vào thực tế giảng dạy trong nhà trường. 3. Đầu tư thêm thời gian và phương tiện cho giờ luyện chính tả trong các hoạt động ôn tập, ngoại khóa ở trường, lớp. 4. Tất cả các đồng chí giáo viên cùng có trách nhiệm vào việc góp phần rèn chữ viết cho học sinh để các em có được kết quả tốt nhất.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_dung_chinh_ta_trong_m.doc