Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài văn miêu tả

Chương trình Ngữ văn THCS không những cung cấp cho học sinh hiểu biết được điều hay, vẻ đẹp trong cuộc sống con người mà còn rèn cho các em kĩ năng tập làm văn để trình bày sự hiểu biết của mình trên cơ sở cảm nhận, liên tưởng, tưởng tượng về một đối tượng nào đó trong cuộc sống. Nhưng từ lâu, Ngữ văn chưa phải là một môn học được nhiều học sinh đam mê và lựa chọn. Bởi nhiều nguyên nhân nhưng trong đó không thể không nói đến một thực tế là hiện tượng nghèo ngôn ngữ của học sinh chúng ta. Thật khó khăn khi phải diễn đạt một vấn đề để cho người đọc cảm nhận được ý tứ của người viết, đặc biệt là khi diễn tả một đối tượng nào đó mà có thể giúp người đọc, người nghe hình dung ra được. Chính vì thế mà chương trình Ngữ văn THCS đã dành nhiều thời lượng cho việc rèn kĩ năng làm các dạng bài văn. Trong đó, ở lớp 6, một trong hai kiểu bài được chương trình quan tâm giành nhiều thời lượng nhất đó là dạng bài văn miêu tả.

Miêu tả là một kiểu văn bản mà việc tạo lập có thể nói là khó đối với học sinh THCS nói chung và học sinh lớp 6 nói riêng. Nó không chỉ đòi hỏi phải có khả năng quan sát tỉ mỉ, nhận xét tinh tế, sự liên tưởng và trí tưởng tượng độc đáo mà còn đòi hỏi cả vốn từ ngữ phong phú với những cách thể hiện khúc chiết thì mới có thể hấp dẫn thuyết phục được người đọc, người nghe. Dạng bài mà học sinh phải xây dựng thì nhiều, mỗi dạng lại có những yêu cầu, cách thức miêu tả khác nhau. Trong đó, có thể nói miêu tả là một kiểu bài khó đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết về thực tế cuộc sống quanh ta và nhất là kĩ năng trình bày, diễn đạt. Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả một giờ dạy Tập làm văn miêu tả mà cụ thể là nâng cao chất lượng bài viết của học sinh về kiểu bài này. Trước hết, chúng ta cùng nhau nhìn lại để hiểu rõ hơn bản chất cũng như yêu cầu cần đạt của một bài văn miêu tả ở lớp 6.

doc 15 trang Trang Lê 16/07/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài văn miêu tả

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài văn miêu tả
ọ, thời điểm trước khác thời điểm sau,
Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, người tả cần tìm được một số hình ảnh tiêu biểu để tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên thiên nào thì cũng phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể; phải có mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng tự nhiên như gió, sương, mưa, nắng Các biện pháp nghệ thuật, so sánh, nhân hóa nên được vận dụng nhiều để góp phần làm cho bài văn tả cảnh thêm sinh động.
Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời gian và trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả chung, nhìn bao quát toàn cảnh và liệt kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh chính, tiêu biểu. ưu tiên dùng nhiều những từ láy tượng hình, tượng thanh, động từ. Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ tình cảm giữa các đối tượng xuất hiện trong bức tranh này. Nếu cần thiết vẫn có thể đưa một số mẩu đối thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu nhận xét của người viết vào văn tả cảnh sinh hoạt. 
2.3.3. Kiểu bài tả người: 
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả. Về cơ bản, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh đảm bảo các yêu cầu sau: 
Xác định đối tượng cần miêu tả: thầy cô giáo, bạn bè hay người thân; tả chân dung hay tả người trong tư thế hoạt động.
Quan sát đối tượng miêu tả và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu: chân dung nhân vật (khuôn mặt, mái tóc, làn da,); tính cách nhân vật (qua ngôn ngữ, tính cách, hành động, cử chỉ của nhân vật).
Trình bày các chi tiết đã lựa chọn theo một trình tự hợp lí sao cho phù hợp với mục đích miêu tả và làm nổi bật được đối tượng miêu tả.
Cảm nhận của người viết về nhân vật mà mình miêu tả.
Ngoài ra, giáo viên cũng cần lưu ý khi ra đề tả người cần chú ý đến đối tượng miêu tả. Đó phải là những đối tượng gần gũi trong đời sống của các em và thay vì yêu cầu miêu tả đối tượng cụ thể như Hãy tả về bà của em thì nên ra những dạng đề mở như Hãy tả lại một người mà em yêu quí nhất trong gia đình. Sự lựa chọn này sẽ giúp các em bày tỏ cảm xúc tình cảm một cách chân thực nhất.
2.4. Kĩ năng diễn đạt: 
Để hoàn thành được một bài văn miêu tả, ngoài các thao tác như tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý và định hướng cách viết, thì diễn đạt chính là thể hiện ý văn của mình thành lời văn cụ thể. Một bài văn miêu tả được đánh giá là đạt kết quả cao, là một bài văn hay, thì ngoài việc tìm được các ý văn mới mẻ, sâu sắc, người viết còn phải biết diễn đạt nó bằng những từ ngữ, những câu văn – đoạn văn chính xác, sinh động, truyền cảm, giàu hình ảnh. Đó là phải dùng từ đúng nghĩa, độc đáo, mới mẻ, viết câu không phải chỉ đúng ngữ pháp mà còn phải linh hoạt, đa dạng; có hành văn trong sáng, phù hợp với nội dung thể hiện. Văn miêu tả là loại văn thể hiện cách cảm, cách nhìn của mỗi cá nhân, do vậy để diễn đạt một đoạn văn, bài văn có sức hấp dẫn, học sinh cần chú ý: 
2.4.1. Cách dùng từ ngữ, hình ảnh: 
Việc lựa chọn từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết trước hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích lũy vốn từ cần được tiến hành thường xuyên và dưới nhiều hình thức: thông qua các giờ học Văn – Tiếng Việt trong nhà trường; thông qua giao tiếp hàng ngày, thông qua quá trình đọc sách, đọc tài liệu tham khảo liên quan tới văn miêu tả. Tất nhiên, có vốn từ phong phú chưa hẳn là đã thành công mà điều quan trọng là người viết phải có sự lựa chọn tinh tế, sao cho giữa một hệ thống các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, có thể chọn ra một vài từ phù hợp, chính xác nhất. Điều cần chú ý là phải luôn có thói quen tìm được từ gợi hình, biểu cảm và phải chọn từ ngữ phù hợp với đối tượng, với văn cảnh. Muốn làm nổi bật đặc điểm, hình ảnh của đối tượng thì chú ý nhiều tới hệ thống từ láy tượng hình, tính từ để tả màu sắc, hình dạng, trạng thái; muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì dùng hệ thống các từ láy tượng thanh để mô phỏng các tiếng động. Bài văn miêu tả thiếu đi các từ ngữ có sức tạo hình, gợi cảm thì chắc chắn sẽ không ấn tượng. Nhưng cũng cần ý thức được rằng nếu dùng các từ ngữ, hình ảnh tùy tiện hoặc khuôn sáo, bắt chước một cách lộ liễu thì cách miêu tả cũng không có sức thuyết phục. Vì thế khi dạy văn miêu tả cần rèn luyện cho các em cách sử dụng từ ngữ, lựa chọn hình ảnh sao cho phù hợp. 
Tả cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh: cuồn cuộn, nhấp nhô, lăn lăn, rì rầm, rì rào, lô nhô, ì oạp,  Nhưng không phải tả sóng lúc nào cũng dùng được các từ ấy. Ta phải xác định các từ ngữ phù hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể: sóng biển lúc trời động thì phải dùng từ cuồn cuộn; tả tiếng sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oạp; tả tiếng sóng biển vọng lại trong đêm mà nghe xa thì phải dùng từ rì rầm .v.v...
Tả cây cối cũng có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau: xanh um, xanh rì, xanh non, xanh mơn mởn; xanh tươi, xanh tốt, xanh rờn,  nhưng khi đi vào thực tế, mỗi loại cây đều có một màu xanh riêng, không thể lẫn lộn: cây rau cải trong vườn hay cây lúa đang thì con gái thì phải là xanh mơn mởn, xanh rờn; cây cối trong rừng rậm rạp thì phải là xanh rì, xanh tốt, xanh um.v.v...
Ngay cả âm thanh tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rất rõ: mưa ban đầu thì lẹt đẹt, mưa trên mái tôn thì rào rào, mưa hắt vào phên nứa thì đồm độp; mưa giội vào tàu lá chuối thì lùng bùng; mưa từ mái tranh giọt đổ xuống sân thì ồ ồ.v.v...
Còn từ ngữ miêu tả dáng đi của con người cũng vô cùng phong phú, đa dạng: em bé tập đi thì lẫm chẫm, cậu bé tinh nghịch thì có dáng đi nhún nhảy, vừa đi vừa nhảy chân sáo; cụ già thì lom khom; người đang đau chân thì đi khập khà khập khiễng; có cô gái trẻ thì yểu điệu thướt tha; người vất vả thì dáng đi hấp tấp, lật đật, sấp ngửa.v.v...
Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong văn miêu tả cũng không kém phần quan trọng: Có thể thấy câu văn miêu tả giàu hình ảnh bao nhiêu thì sức gợi cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu. Việc tạo hình ảnh cho câu văn miêu tả có thể thực hiện bằng nhiều cách: hoặc bằng từ ngữ tượng hình, tượng thanh (gấu bố, gấu mẹ, gấu con cùng béo núc ních, bước đi lặc lè, lặc lè); hoặc bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa (Lá mía sắc như lưỡi gươm, xanh đậm; lũ trẻ đứa nào đứa nấy da cứ đen bóng như bôi nhọ mỡ; dòng sông thay chiếc áo màu xanh hằng ngày bằng dải lụa đào).
2.4.2. Cách đặt câu, dựng đoạn: 
Cũng như văn tự sự, cách đặt câu trong văn miêu tả đòi hỏi người viết phải linh hoạt và công phu. Có thể là câu dài với đầy đủ các thành phần chính phụ, có nhiều tầng ý nối tiếp nhau. Cũng có thể là những câu ngắn (câu đặc biệt hoặc câu tỉnh lược). Vấn đề đặt ra ở đây là phải biết chọn kiểu câu phù hợp với hoàn cảnh, với tình huống, nội dung miêu tả, và cả với cảm xúc của người miêu tả nữa. Trong văn miêu tả, có thể hướng dẫn học sinh sử dụng các kiểu câu sau:
Kiểu câu dài, nhiều tầng ý, nhiều vế nối nhau thường phù hợp với việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên êm đềm, yên ả; hoặc những hoạt động diễn ra nhẹ nhàng, liên tiếp nối nhau; hoặc khi cảm xúc của con người đang dâng tràn, tuôn chảy:
Tả cảnh đồng quê yên ả thanh bình: Cánh đồng trải ra xa tít tắp, mênh mông với sóng lúa lăn tăn gợn nhẹ, đuổi nhau chạy dài đến tận chân trời.
Tả ánh trăng khuya: Trời đã về khuya, ánh trăng dường như càng sáng hơn, vằng vặc giữa vòm cao mênh mông, lặng lẽ tỏa ánh sáng dịu dàng và tinh khiết xuống mặt đất, huyền ảo và đẹp lạ kì.
Kiểu câu ngắn (câu đặc biệt, câu tỉnh lược) với các dấu câu (dấu chấm than, dấu chấm hỏi, dấu chấm lửng) thường dùng để diễn tả những cảm xúc mạnh; những hoạt động nặng, diễn ra nhanh gọn liên tục; những tình huống bất ngờ:
Tả em bé đang tập đi: Cu Tí đang chập chững tập đi. Hai bàn chân bấm xuống. Hai tay dang ra để giữ thăng bằng. Một bước. Hai bước. Uỵch! Cu Tí khóc òa lên vì bị ngã. Mẹ vội đỡ Tí dậy, thơm một cái vào đôi má trắng hồng. Tí ta nhoẻn cười, nước mắt vẫn đọng trên mí. Hai bàn chân lại bấm xuống. Hai tay lại dang ra. Một bước Hai bước Năm bước Mười bước Tiếng vỗ tay cổ vũ của mọi người làm cho cu Tí càng phấn khởi.
Kiểu câu tồn tại, đảo ngữ: thường dùng trong những trường hợp cần nhấn mạnh một đặc điểm, một trạng thái nào đó của đối tượng được miêu tả:
Tả hoa phượng: Trên cành cây, lác đác xuất hiện những bông hoa phượng đầu mùa.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý và nhắc nhở học sinh trong khi làm văn miêu tả là phải biết dùng đan xen các kiểu câu khác nhau. Như vậy mới tạo được sự phong phú, đa dạng cho cách diễn đạt.
Ngoài việc đặt câu, cách dựng trong một bài văn miêu tả cũng rất cần được quan tâm. Thông thường, khi làm văn, học sinh chia bài thành ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Do đó, ứng với ba phần thường là ba đoạn văn. Mở bài và kết luận ngắn, thân bài thì dài hơn. Dù nội dung bài văn nghèo nàn hay phong phú, dù dung lượng bài viết ngắn hay dài, dù đối tượng miêu tả nhiều hay ít thì phần thân bài cũng chỉ có một đoạn. Đây là hạn chế đáng tiếc mà tôi thường gặp trong bài làm của học sinh. Vậy ta có thể khắc phục hạn chế này bằng cách nào?
Trước tiên, cần hướng dẫn học sinh xác định những ý chính cần triển khai trong bài để chia phần thân bài thành các đoạn văn tương ứng. Sau đây là một số cách: 
Chia đoạn theo trình tự thời gian: Người làm bài đặt đối tượng miêu tả vào các khoảng thời gian khác nhau. Trong một năm thì theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông (tả cây cối, cảnh vật); trong một ngày thì có sáng, trưa, chiều, tối (tả cảnh vật, thời tiết); một quá trình thì có bắt đầu, diễn biến, kết thúc (tả cảnh sinh hoạt) hay khi nhỏ, khi lớn, lúc về già (tả con người).v.v...
Chia đoạn theo trình tự không gian: Người làm bài quan sát đối tượng miêu tả ở nhiều góc độ và từ nhiều hướng khác nhau: từ xa nhìn lại, từ ngoài nhìn vào, từ trong nhìn ra, từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên, nhìn bên trái, nhìn bên phải, nhìn phía trước, nhìn phía sau, nhìn toàn cảnh, nhìn chi tiết.v.v...
Chia đoạn theo đặc điểm, tính chất của đối tượng được miêu tả: mỗi đặc điểm, tính chất có thể được tách ra để miêu tả trong một đoạn văn độc lập. Ví như tả người nói chung có thể chia thành hai ý (hình dáng, tính cách).
Chia đoạn theo số lượng đối tượng được miêu tả: có thể sử dụng cách chia đoạn này cho kiểu bài tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt, tả thế giới loài vật, đồ vật. Ví như tả cảnh thiên nhiên thì có: bầu trời – mặt đất; cảnh trong vườn – ngoài đồng; cảnh biển cả – cảnh núi rừng, ... Hoặc tả không khí giờ học thì có: hoạt động của thầy cô giáo, hoạt động của học sinh,  Tả đàn gia súc, gia cầm của gia đình thì có: bầy gà, đàn vịt, lũ trâu bò, mấy con lợn.v.v...
Ví như với bài làm văn tả cây cối trong vườn vào một thời điểm cụ thể, ta có thể chia phần thân bài thành một số đoạn ứng với một số đối tượng miêu tả như sau:
Đoạn thứ nhất, tả một cây có đặc điểm tiêu biểu và gây ấn tượng nhất trong vườn: lớn nhất, được trồng ở vị trí quan trọng nhất, ... Khi tả phải giới thiệu được vị trí; miêu tả hình dáng, đặc điểm của rễ, thân, cành, lá, hoa, quả; ảnh hưởng của nó đối với các cây khác trong vườn hoặc đối với con người. 
Đoạn thứ hai, tả loại cây cho hương: Liệt kê một số loài hoa (hoa nhài, hoa hồng,). Cũng lần lượt miêu tả vị trí, đặc điểm và ý nghĩa của loại cây này.
Đoạn thứ ba, tả loài cây cho quả: Liệt kê một số loại cây tiêu biểu (cam, bưởi, na, ổi, ). Sau đó tập trung miêu tả vị trí, quy trình ra hoa kết trái, cấu tạo, ý nghĩa của từng loài cây.
Cần lưu ý là trong quá trình miêu tả, nên đặt các đối tượng được tả trong mối quan hệ với các yếu tố khác như thời tiết, chim chóc, ong bướm, con người để toàn cảnh khu vườn hiện lên sống động và hấp dẫn.
Có thể nói, để hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh có kĩ năng làm một bài văn miêu tả từ đúng đến hay là vô cùng. Nhưng thực hiện được những vấn đề cơ bản trên đây sẽ phần nào giúp học sinh định hướng được cách nghĩ, cách làm để có được những bài viết mạch lạc, rõ ràng với cách viết linh hoạt, giàu hình ảnh, nội dung phong phú và nhất là bộc lộ được cái hồn của người viết.
III. PHẦN KẾT LUẬN:
1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng.
 	Với những gì vừa đề cập trên đây, tôi đã tiến hành vận dụng để rèn luyện cho học sinh có thêm kĩ năng làm một bài văn miêu tả. Cuối năm học, qua bài kiểm tra với đề ra: Hãy miêu tả cảnh quê hương em vào một buổi chiều hè, tôi đã thu được kết quả như sau: 
Lớp
TSHS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
24
03
12.5
7
29.2
10
41.7
04
16.7
6B
25
03
12.0
8
32.0
10
40.0
04
16.0
Tổng
49
06
12.2
15
30.6
20
40.8
08
16.3
Với những con số biết nói: Trung bình trở lên đạt: 83.7%; trong đó Khá - Giỏi: 42.8% , Tỉ lệ học sinh yếu giảm xuống rõ rệt và không có học sinh bị điểm kém đã cho thấy: Rõ ràng, tuy đây là một dạng bài văn miêu tả khó làm nhưng nếu trong quá trình giảng dạy, giáo viên dành cho nó một sự quan tâm đúng mức thì chắc chắn sẽ phần nào cải thiện được tình hình ngày càng khó tìm ra những bài văn thực sự có chất văn, thể hiện được năng lực và tâm hồn của người viết. Bài kiểm tra đã cho tôi thấy các em đã có sự tiến bộ trông thấy về nhiều mặt. Đặc biệt là ở kĩ năng phân tích đề và kĩ năng diễn đạt. Các em đã biết cách xác định đúng trọng tâm của đề ra, biết cách so sánh sự vật bằng những hình ảnh chân thực, sống động tạo sức hấp dẫn cho bài viết. Đồng thời, mỗi bài ít nhiều cũng đã thể hiện được dấu ấn cá nhân của người viết. Các em tỏ thái độ yêu thích hơn khi được làm kiểu bài văn miêu tả này.
 Kinh nghiệm mà tôi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua nhiều năm giảng dạy, nhiều khóa học sinh đã học tập, thi cử đạt kết quả khá cao. Hi vọng nó cũng có thể gỡ bí cho một số học sinh hiện nay và gợi ý thêm một cách học Văn lâu dài.
2. Những kiến nghị, đề xuất.
Đối với giáo viên giảng dạy: Để việc rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng làm bài văn miêu tả như đã trình bày ở trên một cách hiệu quả, người giáo viên cần biết chọn thời gian, phân chia nội dung kiến thức hướng dẫn rèn luyện cho cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh. Ở đây vừa có kiến thức ôn luyện, vừa có kiến thức mở rộng, nâng cao, các vấn đề miêu tả lại rất phong phú, đa dạng, vì thế nên càng không thể vận dụng máy móc. 
Đối với ban giám hiệu: Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Thường xuyên tổ chức các tiết thao giảng, hội giảng để giáo viên có dịp học tập trao đổi kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp.Đầu tư thêm về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, các loại sách tham
khảo
 Trên đây chỉ là một số giải pháp mà bản thân tôi đã học hỏi, đúc rút kinh nghiệm và áp dụng trong quá trình giảng dạy nên chắc chắn cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để chúng ta cùng có thêm kinh nghiệm trong việc giúp học sinh luyện kĩ năng làm bài văn miêu tả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn trong giai đoạn hiện nay./. 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_luyen_cho_hoc_sinh_ki_nang_lam_bai.doc