SKKN Biện pháp giúp học sinh Lớp 6 học tốt theo đặc trưng thể loại với các văn bản truyện trong môn Ngữ Văn 6 tại Trường PTDTNT THCS Lộc Ninh
Nhà văn M.Gorki đã nói rằng: “Văn học là nhân học” Cho thấy định nghĩa về văn chương năm chữ rất ngắn gọn về số chữ, nhưng về ý nghĩa không ngắn chút nào. Văn học là nhân học, văn học là đề tài con người, không phải chỉ là con người sinh học có đầy đủ chân, tay, mũi, mắt, tim...Mà đó là những con người có cuộc sống trong sáng. Học văn là để hiểu sâu sắc hơn tâm hồn con người, đồng thời để học cách làm người. Phải chăng đó là điều mà Gorki muốn nói với chúng ta - những người đã phần nào đặt chân đến ngưỡng cửa của văn chương.
Trong quá trình phát triển của văn học, thể loại là một yếu tố tương đối ổn định. Phân chia văn học theo thể loại để người đọc có thể thấy được các tác phẩm của nhiều tác giả, ở nhiều thời đại, nhiều quốc gia dù có thể khác nhau về nội dung, tư tưởng nhưng lại có những mặt gần gũi, đồng điệu về cảm xúc, tâm hồn, về cách thức thể hiện, cách thức xây dựng hệ thống nhân vật, cốt truyện.
Bên cạnh đó, yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay với việc lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của quá trình học và là bạn đọc sáng tạo trong quá trình dạy học Văn. Lúc này vai trò của người thầy là người dẫn dắt, là kiến trúc sư, là người định hướng tổ chức học tập cho học sinh. Đứng trước một tác phẩm văn chương, người giáo viên cần đưa ra định hướng cách dạy chung cho các tác phẩm có cùng thể loại. Bởi mỗi thể loại sẽ có một phương pháp, cách thức tổ chức dạy học khác nhau. Dạy học theo đặc trưng thể loại sẽ giúp cho học sinh có cách nhìn khái quát về cách thức khai thác, khám phá các văn bản.
Trong quá trình tổ chức dạy học môn Ngữ văn 6, các giáo viên tham gia giảng dạy bộ môn vẫn chưa thực sự chú trọng tới việc tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại mà mới chỉ tập trung đi sâu, khai thác nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, đi sâu khám phá, phân tích nhân vật trong tác phẩm mà chưa tìm tòi, nghiên cứu, xây dựng cách thức tổ chức dạy học theo khung đặc trưng của từng thể loại. Vì vậy, học sinh học đâu biết đó, chưa biết cách mở rộng, khai thác với các văn bản cùng thể loại. Vì thế, chất lượng dạy học trong môn Ngữ văn 6 chưa thực sự cao, học sinh chưa thực sự đam mê, sáng tạo trong quá trình tham gia học. Bên cạnh đó học sinh chưa học tập tự giác, chưa tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tham gia học tập bộ môn. Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh còn mang hình thức đối phó, chưa bám sát nội dung, chi tiết, các sự việc, nhân vật trong tác phẩm. Với những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn nghiên cứu và áp dụng sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh lớp 6 học tốt theo đặc trưng thể loại với các văn bản truyện trong môn Ngữ văn 6”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Biện pháp giúp học sinh Lớp 6 học tốt theo đặc trưng thể loại với các văn bản truyện trong môn Ngữ Văn 6 tại Trường PTDTNT THCS Lộc Ninh
sẽ tiếp cận tri thức tác phẩm thông qua các hoạt động như: hoạt động mở đầu, hoạt động hình thành kiến thức, hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng. Mỗi hoạt động lại có mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ riêng biệt. Giáo viên cần nắm chắc yêu cầu của từng hoạt động để thiết kế hệ thống câu hỏi, nhiệm vụ vừa đảm bảo yêu cầu của hoạt động, đảm bảo mục tiêu cần đạt trong bài học. Lưu ý, khi thiết kế các nhiệm vụ trong hoạt động này cũng cần bám sát để làm nổi bật rõ đặc trưng theo thể loại của văn bản. Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Bài học đường đời đầu tiên”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tham gia trả lời một số câu hỏi trắc nghiệm trong hoạt động luyện tập để củng cố, khắc sâu thêm tri thức bài học (Hệ thống câu hỏi bám sát làm nổi bật đặc trưng thể loại của văn bản). PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3 Những dấu hiệu nào sau đây giúp em nhận biết “Bài học đường đời đầu tiên” là truyện đồng thoại? Do tác giả Tô Hoài là tác giả chuyên viết truyện đồng thoại (Đ) Các nhân vật trong truyện đều là loài vật được nhân cách hóa. (3) Truyện có nhiều chi tiết hấp dẫn, lôi cuốn (4) Truyện giàu ý nghĩa, bài học sâu sắc (Đ) Truyện phản ánh đặc điểm sinh hoạt của loài vật, qua đó thể hiện đặc điểm của con người (6) Truyện khuyên chúng ta cần sống khiêm tốn, biết sẻ chia và yêu thương mọi người (Đ) Truyện hướng tới đối tượng người đọc là trẻ em Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Cô bé bán diêm”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh khai thác theo đặc trưng thể loại văn bản truyện với phiếu học tập sau: 2.4 Sử dụng một số trò chơi trong dạy học các văn bản truyện để tạo hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Để tạo hấp dẫn, tăng niềm đam mê, hứng thú cho học sinh trong học tập bộ môn Ngữ văn 6 nhằm nâng cao hiệu quả cho các tiết học khi dạy các văn bản truyện,phát huy tính tích cực, chủ động cho HS trong các hoạt động học tập. Đặc biệt thông qua trò chơi học sinh nắm vững kiến thức về đặc trưng thể loại truyện. Đáp ứng các yêu cầu đổi mới về phương pháp và hình thức dạy học trong Chương trình GDPT 2018. Giáo viên nên sử dụng trò chơi trong tiết học. Để tổ chức trò chơi học tập môn Ngữ văn thành công thì cần đảm bảo các điều kiện sau: - Thứ nhất: Khi xây dựng và thiết kế trò chơi phải đảm bảo tính khả thi, thực tiễn, vừa sức và hiệu quả, cụ thể: + Hình thức tổ chức trò chơi phải phù hợp với nội dung bài học, điều kiện thời gian mỗi hoạt động học, phù hợp với tâm lý của học sinh, mang ý nghĩa giáo dục và phù hợp điều kiện, phương tiện dạy học, cơ sở vật chất của nhà trường. + Nội dung lựa chọn hệ thống câu hỏi trong trò chơi đa dạng, đảm bảo tính phân hóa, phù hợp với tất cả đối tượng học sinh, tránh bỏ rơi học sinh yếu kém, phát triển tư duy, khả năng phản ứng nhanh của học sinh. - Thứ hai: Mục đích của trò chơi: Nhằm kiểm tra, củng cố, khắc sâu nội dung bài học, hoặc tạo vấn đề để tiếp cận kiến thức mới, đồng thời tạo hứng thú học tập cho học sinh và tích hợp giáo dục những phẩm chất, bồi dưỡng và phát triển các năng lực theo định hướng đổi mới. - Thứ ba: Tổ chức trò chơi đảm bảo quy trình 3 bước: Bước 1: Chuẩn bị trò chơi: Xác định đối tượng và mục đích, nội dung của trò chơi. Bước 2: Tiến hành trò chơi; tổ chức người tham gia trò chơi, cá nhân hoặc đội nhóm, thể lệ chơi gồm luật chơi và thời gian, nguyên tắc chơi. Bước 3: Kết thúc trò chơi: Đánh giá, nhận xét, khuyến khích sau cuộc chơi và những nội dung đạt được. - Thứ tư: Xác định thời điểm tổ chức trò chơi có thể thực hiện được trong các hoạt động khởi động, hình thành kiến thức mới, hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng hoặc trong các hoạt động ngoại khóa như: Câu lạc bộ em yêu môn Văn học, Hoạt động trải nghiệm.... Tuy nhiên, cũng không nên quá lạm dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học dẫn đến nhàm chán, khó thu hút được sự chú ý của học sinh. * Sau đây tôi xin trình bày một số cách thức thực hiện trò chơi mà tôi đã thực hiện khá thành công trong quá trình dạy các văn bản truyện môn Ngữ văn 6 tại trường: a. Sử dụng trò chơi để khởi động bài mới Hoạt động khởi động có nhiệm vụ khơi gợi, kích thích học sinh mong muốn được tìm hiểu, khám phá bài học bằng những hoạt động tiếp theo trong giờ học, tức là tạo hứng thú và một tâm thế tích cực để học sinh bước vào bài học mới. Vì vậy, thay vì lựa chọn cách vào bài trực tiếp thông thường tôi đã sử dụng các trò chơi vào hoạt động khởi động giúp các em học sinh cảm thấy hứng thú, chủ động và tích cực hơn khi bắt đầu bài mới. Một số trò chơi mà tôi đã sử dụng vào hoạt động khởi động như: Ai nhanh hơn, Ai là triệu phú, Rung chuông vàng, Giải ô chữ... Tùy vào nội dung bài học mà giáo viên sẽ lựa chọn một cách linh hoạt và phù hợp các trò chơi trên. Trong biện pháp này tôi xin trình bày cụ thể một trò chơi vào hoạt động khởi động như sau: Ví dụ: Khi dạy văn bản “Sự tích Hồ Gươm” trước khi vào bài ở hoạt động mở đầu, để tạo hứng thú lôi cuốn, hấp dẫn, gây sự tò mò cho học sinh tôi đã thực hiện trò chơi “Giải ô chữ” như sau: Bước 1: Giáo viên chuẩn bị trò chơi - Để phục vụ trò chơi, giáo viên nên phác thảo kết quả trò chơi trên giấy và sắp xếp các dữ kiện ở các ô hàng ngang sao cho phù hợp với đáp án ở ô hàng dọc chứa từ khóa. Bước 2: Tiến hành trò chơi - Giáo viên giới thiệu tên trò chơi, chiếu lên màn hình và thông qua thể lệ trò chơi - Cách chơi trò chơi giải ô chữ trên PowerPoint đó là học sinh sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi ở ô chữ hàng ngang để tìm ra được gợi ý cho đáp án của ô chữ hàng dọc chứa từ khóa chính. (Mỗi câu hỏi có 10 giây suy nghĩ và trả lời). Học sinh nào biết đáp án sẽ xin trả lời bằng cách giơ tay. - Giáo viên chiếu ô chữ và học sinh thực hiện trò chơi. Hệ thống các câu hỏi để giải mã các ô chữ: 1. (5 chữ) Thủ đô của nước ta là thành phố nào? (Hà Nội) 2. (8 chữ) Đây là một quận trung tâm của Hà Nội gắn liền với một truyền thuyết lịch sử? (Hoàn Kiếm) 3. (11 chữ) Ai đã là người cho Lê Lợi mượn gươm báu? (Đức Long Quân) 4. (6 chữ) Tên cây cầu được sơn màu đỏ đặc trưng nối liền đền Ngọc Sơn ? (Thê Húc) 5. (5 chữ) “Ba lần ở ẩn Chí Linh/Mười năm khởi nghĩa tan thành giặc Minh” là ai ? (Lê Lợi) 6. (6 chữ) “Núi gì vạn cổ còn xanh/Khi xưa Lê Lợi dấy quân diệt thù” là núi gì ? (Lam Sơn) Sau khi học sinh lần lượt trả lời các câu hỏi ở ô chữ hàng ngang sẽ tìm ra được ô chữ ở hàng dọc chứa từ khoá chính là: Hồ Gươm. Bước 3: Kết thúc trò chơi Giáo viên nhận xét, đánh giá việc thực hiện trò chơi của học sinh, khen ngợi động viên các em. Từ các ô chữ đã được giải đáp giáo viên dẫn dắt vào nội dung hình thành kiến thức mới cho học sinh. b. Sử dụng trò chơi trong hoạt động: Hình thành kiến thức mới Trước kia giáo viên thường dùng phương pháp vấn đáp, thuyết trình để truyền tải kiến thức đến học sinh, điều đó dễ sa vào lý thuyết khô khan, nhàm chán. Học sinh sẽ cảm thấy ít hứng thú khi khám phá các kiến thức mới. Để thay đổi không khí, tạo hoạt động học tập lí thú tăng tính tương tác cũng như phát huy sự chủ động, tích cực của học sinh. Giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi như: Đuổi hình bắt chữ, Đố vui, Tiếp sức, Giải ô chữ, Ai nhanh 110'11... Cũng tuỳ vào từng nội dung bài học mà giáo viên sẽ lựa chọn một cách linh hoạt và phù hợp các trò chơi trong hình thành kiến thức mới. Trong biện pháp ở hoạt động này tôi xin trình bày một trò chơi như sau: Ví dụ: Khi dạy văn bản “Bài học đường đời đầu tiên” của Tô Hoài để học sinh biết văn bản đó thuộc thể loại Truyện đồng thoại. Tôi đã tổ chức trò chơi “Tiếp sức” như sau: Bước 1: Giáo viên chuẩn bị trò chơi Bước 2: Tiến hành trò chơi - Giáo viên giới thiệu tên trò chơi và thông qua thể lệ trò chơi. - Để thực hiện trò chơi này, giáo viên thường chia lớp thành 4 đội. Từng học sinh trong đội lần lượt tham gia trò chơi. Cứ học sinh này xuống thì học sinh khác lên thay thế sao cho đội của mình hoàn thành bài tập một cách nhanh nhất, chính xác nhất. - Trong thời gian 5 phút với nội dung câu hỏi: Tìm đặc điểm của thể loại Truyện đồng thoại thông qua văn bản “Bài học đường đời đầu tiên”. Sau 5 phút đội nào tìm được nhiều đặc điểm Truyện đồng thoại nhanh và đúng nhất sẽ là đội chiến thắng. - Học sinh thực hiện trò chơi. Sau khi 4 đội đã hoàn thành xong phần thi của mình. Giáo viên chiếu đáp án (Đáp án: Nhân vật là loài vật (Dế Mèn), truyện dành cho thiếu nhi. Có cốt truyện, vừa phản ánh đặc điểm sinh hoạt của loài vật là Dế Mèn vừa thể hiện đặc điểm của con người.) Sau đó lần lượt chữa bài cho các đội để tìm ra đội chiến thắng. Bước 3: Kết thúc trò chơi Giáo viên nhận xét đánh giá, động viên tinh thần tham gia của các em. Ở trò chơi “Tiếp sức” tôi thấy học sinh rất hứng thú tham gia. Đặc biệt qua phần trò chơi đó học sinh đã nắm vững và khắc sâu kiến thức về thể loại Truyện đồng thoại. c. Sử dụng trò chơi trong hoạt động luyện tập Khi thực hành hoạt động luyện tập giáo viên có thể sử dụng rất nhiều trò chơi như Giải ô chữ, Tiếp sức, Ai nhanh hơn, Chiếc nón kì diệu... Ví dụ: Khi văn bản “Bài học đường đời đầu tiên” của Tô Hoài ở hoạt động luyện tập để củng cố kiến thức, tạo không khí lớp học sôi nổi, giúp học sinh nắm vững kiến thức, tôi đã thực hiện trò chơi “Ai là triệu phú” như sau: Bước 1: Giáo viên chuẩn bị trò chơi Bước 2: Tiến hành trò chơi - Giáo viên giới thiệu tên trò chơi, chiếu lên màn hình và thông qua thể lệ trò chơi. - Giáo viên chiếu câu hỏi, HS chọn đáp án đúng nhất. Câu 1. Đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên là của tác giả nào? A. Tô Hoài. B. Thạch Lam. C. Nguyễn Tuân. D. Võ Quảng. Câu 2. Đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên được trích từ tác phẩm nào? A. Đất rừng phương Nam. B. Dế Mèn phiêu lưu kí. C. Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. D. Những năm tháng cuộc đời. Câu 3. Hai nhân vật chính trong đoạn trích trên là ai? A. Mẹ Dế Mèn và Dế Mèn. B. Dế Mèn và chị Cốc. C. Dế Mèn và Dế Choắt. D. Chị Cốc và Dế Choắt. Câu 4. Câu nào dưới đây không nói về tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí? A. Đây là tác phẩm đặc sắc và nổi bật nhất của của Tô Hoài viết về loài vật. B. Tác phẩm gồm có 10 chương, kể về những chuyến phiêu lưu đầy thú vị của Dế Mèn qua thế giới những loài vật nhỏ bé. C. Tác phẩm được in lần đầu tiên năm 1941. D. Tác phẩm viết dành tặng cho các bậc cha mẹ. Câu 5. Đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên được kể lại theo lời A. Dế Mèn. B. Chị Cốc. C. Dế Choắt. D. Tác giả. Câu 6. Tác giả đã khắc họa vẻ ngoài của Dế Mèn như thế nào? A. Ôm yếu, gầy gò và xanh xao. B. Khỏe mạnh, cường tráng và đẹp đẽ. C. Mập mạp, xấu xí và thô kệch. D. Thân hình bình thường như bao con dế khác. Câu 7. Tính cách của Dế Mèn trong đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên như thế nào? A. Hiền lành, tốt bụng và thích giúp đỡ người khác. B. Khiêm tốn, đối xử hòa nhã với tất cả các con vật chung quanh, C. Hung hăng, kiêu ngạo, xem thường các con vật khác. D. Hiền lành và ngại va chạm với mọi người. Câu 8. Bài học đường đời đầu tiên mà Dế Mèn rút ra được qua cái chết của Dế Choắt là gì? A. Không nên trêu ghẹo những con vật khác, nhất là họ hàng nhà Cốc. B. Nếu có ai nhờ mình giúp đỡ thì phải nhiệt tâm thực hiện, nếu không có ngày mình cần thì sẽ không có ai giúp đỡ. C. Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào thân. D. Cần đối xử với mọi người thân thiện, hòa nhã, tránh thái độ xem thường người khác. Câu 9. Trước khi chết, Dế Choắt đã khuyên Dế Mèn những gì? A. Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy. B. Ở đời không nên xem thường người khác, cần tôn trọng người khác như chính bản thân mình. C. Cần phải báo thù cho Choắt. D. Không nên trên ghẹo người khác. Câu 10. Giá trị nghệ thuật của đoạn trích trên thể hiện ở điểm nào? A. Nghệ thuật miêu tả loài vật sinh động. B. Cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất tự nhiên, hấp dẫn. C. Ngôn ngữ chính xác, giàu tính tạo hình. D. Cả ba câu A, B và C. Bước 3: Kết thúc trò chơi GV nhận xét đánh giá, động viên tinh thần tham gia của các em. Thông qua trò chơi Ai là triệu phú học sinh rất hứng thú, hào hứng khi chọn được đáp án đúng. Đồng thời nắm vững kiến thức của văn bản thông qua trò chơi. IV. Kết quả áp dụng sáng kiến 1. Ngày sáng kiến được áp dụng: Áp dụng thử học kì II năm học 20212022 và được áp dụng lần đầu học kì I năm học 2022-2023 2. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Trong trường Phổ thông DTNT THCS Lộc Ninh. 3. Hiệu quả áp dụng sáng kiến: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Và một trong những định hướng đổi mới trong môn Ngữ văn đó là đổi mới cách thức tổ chức dạy học với việc dạy học theo đặc trưng thể loại. Việc tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại trong môn Ngữ văn có vai trò quan trọng góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động làm chủ và chiếm lĩnh tri thức. Đồng thời, việc dạy học theo đặc trưng thể loại còn khắc phục tồn tại trong dạy học môn Ngữ văn hiện nay đó là: dạy học theo lối mòn, dạy học mang tính chất hàn lâm, sao chép... Với những giải pháp đưa ra trong sáng kiến hoàn toàn phù hợp với tất cả các học sinh trong nhà trường, phù hợp với năng lực của giáo viên. Đáp ứng các yêu cầu đổi mới về phương pháp và hình thức dạy học trong Chương trình GDPT 2018. Kết thúc đề tài, tôi đã tiến hành làm một bài khảo sát với học sinh, kết quả như sau: Tham gia giảng dạy khối 6 với tổng số 70 học sinh. Kết quả khi áp dụng thử học kì II năm học 2021-2022 như sau: Học kì Năm học TS HS Giỏi Khá Đạt Chưa đạt SL % SL % SL % SL % Học kì II (Năm học 2021-2022) 70 11 15.7 39 55.7 17 24.3 3 4.3 Tham gia giảng dạy khối 6 với tổng số 67 học sinh. Kết quả sau khi áp dụng lần đầu học kì I năm học 2022-2023 như sau: Học kì Năm học TS HS Giỏi Khá Đạt Chưa đạt SL % SL % SL % SL % Học kì I (Năm học 2022-2023) 67 13 19.4 43 64.2 10 14.9 1 1.5 Qua áp dụng sáng kiến tôi nhận thấy: - Học sinh biết cách khai thác các văn bản truyện theo đặc trưng thể loại, bám sát đặc trưng thể loại để khai thác các văn bản truyện ngoài Sách giáo khoa. - Học sinh biết cách chuẩn bị bài có hiệu quả, tạo sự tương tác đa chiều trong lớp học, tích cực, chủ động, sáng tạo khi khám phá các nội dung trong văn bản. - Các em học sinh yêu thích môn học hơn, yêu thích các văn bản truyện trong và ngoài chương trình. Niềm đam mê, hứng thú học tập bộ môn được nâng cao rõ dệt. V. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền: Tôi lần đầu tiên nghiên cứu giải pháp này, chưa bộc lộ công khai trong văn bản sách báo.không trùng với các giải pháp của người đã được áp dụng. Lộc Ninh, ngày 7 tháng 4 năm 2023 Người viết Hoàng Thị Thu Hương ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG PTDTNT THCS LỘC NINH ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN LỘC NINH
File đính kèm:
skkn_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_6_hoc_tot_theo_dac_trung_th.docx
SKKN Biện pháp giúp học sinh Lớp 6 học tốt theo đặc trưng thể loại với các văn bản truyện trong môn.pdf

