SKKN Cách khai thác mới trong kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy nhằm phát huy hứng thú học tập môn Ngữ Văn của học sinh Trường THCS Sơn Lôi
Như chúng ta đều biết, ngày 12/9/2017, Sở GD&ĐT tỉnh Vĩnh Phúc đề ra công văn số: 1039/HD-SGDĐT về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2017-2018. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học là “Thực hiện thường xuyên, hiệu quả các phương pháp, hình thức và kĩ thuật dạy học tích cực, các hình thức đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học, vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề thực tiễn của học sinh”. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức và kỹ thuật dạy học từ truyền thống sang hiện đại; từ bị động sang chủ động tích cực nhằm phát huy tính tích cực của học sinh hướng đến việc phát triển các năng lực cần thiết là nhiệm vụ quan trọng.
Là một giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở, tôi luôn trăn trở về nhiệm vụ cấp thiết này của ngành. Làm thế nào để học sinh học tập đạt hiệu quả cao? Làm thế nào để trước mỗi giờ Ngữ văn các em đều hứng thú, tích cực và thật sự có nhu cầu được khám phá vẻ đẹp nghệ thuật văn chương? Làm sao để các em yêu môn Văn, say mê với sức quyến rũ của ngôn từ? Đó là điều tôi luôn suy nghĩ và mong tìm giải pháp tối ưu nhất trong việc tổ chức dạy học.
Qua thực tiễn dạy học và tổng kết kinh nghiệm nhiều năm hướng dẫn học sinh, tôi nhận thấy có nhiều kĩ thuật dạy học tích cực có thể vận dụng hiệu quả trong quá trình tổ chức cho học sinh học tập môn Ngữ văn. Trong số đó phải kể đến kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy. Kỹ thuật này được áp dụng trong nhiều năm nay nhưng dường như ít được quan tâm đúng mức. Số lượng các thầy cô sử dụng bản đồ tư duy chưa nhiều do tâm lý ngại sử dụng máy vi tính và các phần mềm soạn thảo, thiết kế bản đồ tư duy Mindmap.
Xong đó là việc của vài năm trước. Ngày nay, công nghệ thông tin đang có sự phát triển mạnh mẽ, ứng dụng vẽ bản đồ tư duy trở nên giản tiện hơn rất nhiều kèm theo nhiều tính năng ưu việt. Và trong một khả năng hạn chế nhất, để sử dụng kỹ thật này theo tôi thấy chúng ta vẫn có thể thực hiện một cách linh hoạt và hiệu quả chỉ bằng bút dạ màu, giấy A0 hoặc giấy A4. Do đó, tôi mạnh dạn đề xuất đưa ra một số cách khai thác hiệu quả hơn với kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn với đề tài: Cách khai thác mới trong kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy nhằm phát huy hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh trung học cơ sở.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Cách khai thác mới trong kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy nhằm phát huy hứng thú học tập môn Ngữ Văn của học sinh Trường THCS Sơn Lôi

đến chủ đề bài viết Từ ý tưởng trung tâm, triển khai ý tưởng này thành các nhánh. Mỗi nhánh thể hiện một khía cạnh, vấn đề cụ thể hóa cho trung tâm điểm. 3 Lựa chọn và sắp xếp ý tìm được theo một trật tự logic nhất định Tổ chức lại bản đồ tư duy bằng cách lược bỏ bớt những yếu tố không cần thiết, đánh dấu thứ tự các nhánh theo logic nhất định 4 Lập dàn ý và hoàn thiện văn bản (Thực chất, đây là bước mở đầu cho một kĩ năng khác nhưng vẫn cần nêu ở đây để thấy tính kết nối của toàn bộ quá trình làm văn!) Hoàn thiện bản đồ tư duy Qua đối chiếu, có thể thấy đơn vị “ý” trong văn bản tương đương với “từ khóa” hoặc “từ gốc” theo ngôn ngữ bản đồ tư duy; thao tác lập ý cho bài làm văn tương ứng với sự hình thành các nhánh xuất phát từ từ khóa trong bản đồ. Như vậy, hoạt động tìm ý, lập ý và hoạt động tìm từ khóa, nhánh lan tỏa đều có bản chất là các hoạt động tư duy logic. Điểm khác biệt cơ bản chỉ là vấn đề ngôn ngữ và cách thức biểu đạt kết quả tư duy. Đây được xem như cơ sở quan trọng, “chìa khóa” để xác lập khả năng dạy học lập ý bằng bản đồ tư duy. Vậy phương pháp dạy học lập ý bài làm văn bằng bản đồ tư duy thực hiện như thế nào? Một cách chung nhất, dạy học lập ý bài làm văn đòi hỏi phải có sự tham gia hoạt động của cả giáo viên và học sinh. Về phía giáo viên, hoạt động quan trọng và chủ yếu nhất là trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về cách thức tìm ý, lập ý và kĩ năng lập bản đồ tư duy, minh họa cho học sinh bằng một số ví dụ đơn giản. Điều này giống như việc giáo viên dẫn trước nền móng và dựng lên giàn giáo để trên đó, học sinh xây ngôi nhà của mình. Về phía học sinh, sau khi được trang bị những kiến thức cơ bản về việc phát hiện ý, cách thức tổ chức ý, vẽ bản đồ tư duy học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên có thể tự xây dựng những bản đồ lập ý. Có thể hiện thực hóa quy trình hướng dẫn học sinh lập ý cho bài văn bằng bản đồ tư duy theo một ví dụ cụ thể là đề bài nghị luận xã hội (Một đề bài áp dụng cho Đội tuyển liên môn Khoa học Xã hội năm 2017-2018) sau đây: “Nhà thơ Tố Hữu viết: «Ôi, sống đẹp là thế nào hỡi bạn?» (Một khúc ca xuân). Quan niệm của em về vấn đề trên”. Bước 1. Phân tích đề bài Dựa theo những kiến thức đã học về kiểu bài nghị luận, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích yêu cầu của đề bài trên hai tiêu chí: nội dung và hình thức. Trong đó, trả lời các câu hỏi cụ thể như đây là kiểu bài gì? Vấn đề cơ bản của bài viết? Bài viết cần đáp ứng những yêu cầu gì về cách thức sử dụng ngôn ngữ và tổ chức văn bản? có thể áp dụng những thao tác lập luận nào để bài viết sinh động, thuyết phục?... Theo đó, bước Phân tích đề bài giúp người viết có cái nhìn khái quát về các yêu cầu cần thực hiện. Bước 2. Hướng dẫn tìm ý Về bản chất, tìm ý gắn liền với việc người viết xác định những luận đề, luận điểm cho bài viết của mình. Ở đây, mới dừng lại ở hoạt động “tìm” chứ chưa đòi hỏi người viết phải sắp xếp thành trật tự. Trong bước này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm ý thông qua các thao tác nhỏ cụ thể như sau: Nêu vấn đề Nội dung cần đạt Xây dựng bản đồ Chủ đề bài viết là gì? Sống đẹp Đưa vào làm ý tưởng trung tâm của bản đồ, ghi ra giữa trang giấy Những vấn đề nào có thể triển khai xung quanh khái niệm “sống đẹp?” Gợi ý học sinh tự liệt kê trong tư duy. - Sống đẹp là gì? - Sống đẹp có cần thiết không? Vì sao? - Sống đẹp được biểu hiện cụ thể bằng những giá trị như thế nào? - Có những điều gì cần tránh để trở thành người sống đẹp? - Có ví dụ nào trong thực tiễn không?[...] - Lấy từ khóa ngắn gọn cho mỗi vấn đề tìm được, đưa mỗi từ khóa ấy về một nhánh với xuất phát điểm là ý tưởng trung tâm. Khuyến khích học sinh ghi ra tối đa các từ khóa xuất hiện trong suy nghĩ. - Mỗi nhánh từ khóa có thể vẽ bằng một màu sắc khác nhau cho dễ nhận diện. - Có thể vẽ theo một chiều trái – phải hoặc phải – trái. Từ mỗi ý lớn tìm được, hãy phát triển thành các ý nhỏ cụ thể hơn, trả lời cho từng câu hỏi đã có? - Sống đẹp là gì? + ý nghĩa câu thơ + biểu hiện đẹp của cuộc sống con người + sống có lí tưởng, hoài bão, biết hi sinh [...] - Biểu hiện: + có khát vọng, lí tưởng + có trí tuệ sáng suốt, rộng mở đón nhận hiểu biết [...] - Tiếp tục coi mỗi từ khóa ở các nhánh là điểm trung tâm bậc 2, vẽ tiếp các nhánh nhỏ hơn, trên mỗi nhánh nhỏ hơn ghi các nội dung cụ thể, chi tiết. - Liệt kê tất cả các nội dung cụ thể minh họa cho vấn đề ở mỗi nhánh. - Ghi tóm lược nội dung ý, tránh dài dòng. Trong bước này, có thể nhận thấy bản đồ tư duy khắc phục nhược điểm tuyến tính và hạn chế về độ mở của kiểu liệt kê tuyến tính. Với mỗi một ý tưởng nảy sinh, người viết đưa nó thành một nhánh của bản đồ, minh họa bằng hình ảnh sinh động nếu muốn; mở rộng bản đồ tư duy từ khái quát đến cụ thể đến khi có thể. Hiểu biết và năng lực phát hiện của người viết về vấn đề càng phong phú, sâu sắc bao nhiêu thì càng có thể làm nảy sinh nhiều ý tưởng bấy nhiêu. Bước 3. Lựa chọn và sắp xếp ý theo trật tự logic Khi đã liệt kê được các ý tưởng nảy sinh trong đầu óc, người viết phải sắp xếp chúng theo một trình tự hợp lí, theo quy luật của tư duy logic. Trong thực tế, nhiều khi việc sắp xếp ý đã diễn ra song song với quá trình tìm ý. Tuy vậy, vẫn phải thực hiện bước đi này để đảm bảo chắc chắn quan hệ giữa các ý là có chủ đích. Bởi trong khi lập ý, việc sắp xếp trình tự các ý lớn, ý nhỏ đóng vai trò hết sức quan trọng. Một mặt, nó bộc lộ cách nhận thức của chủ thể về vấn đề đang bàn; mặc khác, nó lại có tác động không nhỏ tới tâm lí, tình cảm của người tiếp nhận về sau. Với việc triển khai nội dung cho một đề làm văn trong nhà trường phổ thông, người viết không thể và cũng không cần thiết phải đưa vào tất cả những hiểu biết của mình. Mỗi đề bài thường có yêu cầu riêng đòi hỏi người viết phải huy động lĩnh vực kiến thức nhất định và vận dụng tới những kĩ năng chuyên biệt. Từ sơ đồ đã có sau bước hai, giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn các ý phù hợp cho bài viết của mình, đảm bảo lấy những ý quan trọng nhất, làm bật được nội dung tư tưởng của bài cũng như phù hợp với dung lượng, thời gian yêu cầu. Đồng thời, tiến hành phân loại, sắp xếp các ý theo trình tự nhất định, đảm bảo tính logic, phát triển. Để làm được việc đó, học sinh không cần thiết vẽ lại sơ đồ theo trật tự mà có thể sử dụng con số, mũi tên, các kí hiệu riêng... để đánh dấu thứ tự trước – sau. Sơ đồ minh hoạ Với bản đồ tư duy đã có này, có thể thấy sản phẩm của thao tác lập ý không còn ở dạng tuyến tính theo kiểu truyền thống mà được “mã hóa lại” dưới dạng hình ảnh. Mỗi học sinh khác nhau có thể tạo ra một kiểu hình ảnh khác nhau. Điều này xuất phát từ việc mỗi chủ thể độc lập có một kiểu loại tư duy, khả năng khám phá, kĩ năng thể hiện và độ mở trong nhận thức hoàn toàn riêng biệt. Vì thế, so với cách làm trước đây, lập ý bằng bản đồ tư duy cho phép giáo viên đánh giá chuẩn xác hơn năng lực học sinh. Từ đó, có biện pháp điều chỉnh quá trình dạy học một cách phù hợp. b.2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic. * Học sinh tự có thể sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ Bản đồ tư duy trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập. * Bản đồ tư duy giúp học sinh học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo Bản đồ tư duy trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. * Bản đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực: - Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng Bản đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. - Việc học sinh tự vẽ Bản đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi Bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và Bản đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. 5.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Thực hiện sáng kiến này, đầu năm học 2017-2018, tôi đã điều tra thực trạng về công tác dạy và học Ngữ văn tại lớp 8A, 8B, 8C và Đội tuyển học sinh giỏi Liên môn Khoa học xã hội của nhà trường. Đề xuất và hiện thực hóa các giải pháp về cách khai thác mới trong kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy nhằm phát huy hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh trung học cơ sở, theo tôi lên kế hoạch: + Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng kỹ thuật Bản đồ tư duy: máy chiếu, máy vi tính, giấy A0, bút dạ màu + Biên soạn giáo án khoa học hợp lí, phù hợp với đối tượng, lên các phương án cụ thể để áp dụng kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy: Dạy bài mới, củng cố kiến thức, ôn tập kiến thức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý . + Tạo tâm thế tốt cho học sinh tiếp nhận tiết học: Linh hoạt trong các hoạt động lên lớp, tranh gò bó, công thức. Điều quan trọng là phải khiến các em thấy được vai trò chủ thể tích cực của bản thân trong quá trình lĩnh hội tri thức. + Phát huy các phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học tích cực: nêu vấn đề, tích hợp liên môn, ; kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật phòng tranh Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy chất lượng học, cũng như bài viết tập làm văn của học sinh đã được cải thiện đáng kể. Học sinh hào hứng hơn trong giờ học Ngữ văn. Với thành công bước đầu này tôi đã mạnh dạn trau đổi chia sẻ cùng đồng nghiệp để cùng vận dụng vào khối 6, khối 8 và khối 9 của nhà trường. Trong thời gian sắp tới, tôi sẽ tiếp tục đem kinh nghiệm này chia sẻ cho đồng nghiệp qua các buổi sinh hoạt chuyên đề cấp cụm trường, cấp Huyện, Tỉnh. 6. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Về giáo viên: Để hiện thực hóa kỹ thuật sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú học tập của môn Ngữ văn, giáo viên cần chú ý các điều kiện sau: + Giáo viên phải yêu nghề, tâm huyết trong giảng dạy, nhiệt tình hướng dẫn họ sinh. + Giáo viên thường xuyên tự học tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là trình độ công nghệ thông tin, các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. + Phối hợp chặt chẽ với Tổ chuyên môn, giáo viên Tin học cả nhà trường để cập nhật những thành tựu mới nhất về Bản đồ tư duy. - Về phía Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn: + Tăng cường cơ sở vật chất, hệ thống máy vi tính, máy chiếu cho lớp học. + Có chính sách động viên, khuyến khích giáo viên đổi mới có hiệu quả phương pháp dạy học. + Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học - Về phía học sinh: Với tư cách là chủ thể tích cực trong quá trình học, các em nhận thức rõ các điều kiện sau: + Cần tăng cường ý thức học tập, quan tâm học tập toàn diện, tránh học lệch. + Rèn kỹ năng sống tự lập, biết lập kế hoạch học tập phù hợp. + Học sinh được trang bị kiến thức Tin học cơ sở, kiến thức Mĩ thuật, Hình học khá vững chắc. 8. Đánh giá lợi ích thu được: 8.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Năm học 2017 – 2018, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn tại lớp 8A, 8B, 8C. Qua điều tra thực tế và kiên trì thể nghiệm đề tài, tôi đã thu được kết quả như sau: Về phía giáo viên: Giáo viên có điều kiện trau dồi kiến thức chuyên môn thêm vững vàng, vận dụng được nhiều phương pháp dạy học vào quá trình giảng dạy. Về phía học sinh: Học sinh nắm vững kiến thức, vận dụng được vào trong các nhiệm vụ thực tế. Nhiều học sinh có hứng thú học tập, yêu quý, tự hào về những sáng tạo của bản thân trong quá trình học tập. Các em thực sự trưởng thành hơn trong việc học tập của mình. Kết quả cụ thể: Về giáo dục chất lượng đại trà: Kết quả điều tra đầu năm 2017 – 2018 Lớp Tổng số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 8A 40 0 0 10 25 25 62,5 5 12,5 0 0 8B 37 0 0 11 29,6 24 64,7 3 5,7 0 0 8C 37 0 0 9 24,3 26 71 2 4,7 0 0 Kết quả khảo sát cuối tháng 12 năm 2017: Lớp Tổng số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 8A 40 2 5 15 37,5 21 52,5 2 5 0 0 8B 37 1 2,7 13 35,1 22 59,5 1 2,7 0 0 8C 37 1 2,7 12 32,4 24 64,9 0 0 0 0 Về giảng dạy đội tuyển học sinh giỏi Liên môn Khoa học xã hội: Kết quả điều tra đầu năm 2017 – 2018 + Giỏi: 01 HS + Khá: 08 HS Kết quả khảo sát giữa tháng 10 năm 2017: + Giỏi: 02 HS + Khá: 07 HS 8.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Đồng chí Phan Thị Luyến – GV dạy môn Ngữ văn 9 tại các lớp 9A, 9B; đồng chí Nguyễn Trung Kiên dạy Ngữ văn tại lớp 6A của nhà trường cùng tham gia thử nghiệm sáng kiến của tôi đã thu được kết quả khả quan. Cụ thể là: Kết quả điều tra đầu năm 2017– 2018 Lớp Tổng số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 9A 43 0 0 19 44,1 23 53,6 1 2,3 0 0 9B 43 0 0 8 18,6 30 69,7 5 11,7 0 0 6A 43 1 2,3 23 53,4 17 39,5 2 4,8 0 0 Kết quả khảo sát cuối tháng 12 năm 2017: Lớp Tổng số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 9A 43 2 4,6 20 46,5 21 48,9 0 0 0 0 9D 43 0 0 15 34,8 25 58,2 3 7,0 0 0 6A 43 2 4,8 25 58,1 16 37,1 0 0 0 0 Cô Luyến và thầy Kiên cùng nhiều thầy cô trong tổ bộ môn đều thừa nhận những chuyển biến tích cực mà sáng kiến tạo ra. Điều đó góp phần thúc đẩy chất lượng đại trà và mũi nhọn của nhà trường càng cao hơn. 9. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Phan Thị Luyến Trường THCS Sơn Lôi Áp dụng vào giảng dạy cho HS đại trà và HSG. 2 Nguyễn Trung Kiên Trường THCS Sơn Lôi Áp dụng vào giảng dạy cho HS đại trà. 3 Đội tuyển HSG Liên môn KHXH 8 Trường THCS Sơn Lôi Rèn kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài, đọc và tự sửa bài Nghị luận XH. ......., ngày.....tháng......năm...... Hiệu trưởng (Ký tên, đóng dấu) ........, ngày.....tháng......năm...... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN (Ký tên, đóng dấu) Sơn Lôi, ngày 09 tháng 01 năm 2018 Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên) Trần Quang Thành
File đính kèm:
skkn_cach_khai_thac_moi_trong_ky_thuat_su_dung_ban_do_tu_duy.doc