SKKN Đổi mới dạy học tác phẩm Ngữ Văn trường THPT bằng phương pháp thảo luận nhóm
Phân tích tác phẩm văn chương (TPVC), còn gọi là đọc văn, là một phân môn quan trọng đòi hỏi bản lĩnh của người giáo viên dạy văn. Đọc văn là quá trình giáo viên phê bình TPVC qua phương tiện lời nói, là quá trình học sinh tiếp nhận TPVC với tư cách người đồng sáng tạo. Nhiệm vụ của đọc văn là giúp học sinh tự khám phá, cảm thụ cái hay, cái đẹp của TPVC, từ đó phát triển về tâm hồn và trí tuệ. Không thể có một quá trình cảm thụ thực sự, tự giác và tự nhiên nếu học sinh không tự nỗ lực vận động. Tuy nhiên những năm gần đây, học sinh có xu hướng coi nhẹ và chán học văn, yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương, lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của những số phận trong tác phẩm cũng như ngoài đời sống. Có thể nói đây là hệ quả tất yếu của lối dạy học văn truyền thống. Đó là lối dạy truyền thụ một chiều, thầy đọc trò chép, thầy say sưa thuyết giảng, học sinh tiếp nhận thụ động, ghi nhớ một cách máy móc về văn chương. Có khá nhiều trường hợp, giáo viên chỉ quan tâm đến nội dung tác phẩm mà chưa chú ý chúng mức về đặc trưng thể loại và ít chú ý về phương pháp. Tất cả những điều này cho thấy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn ở nhà trường phổ thông được đặt ra những năm gần đây là tất yếu, buộc các cấp chỉ đạo chuyên môn và giáo viên phải quan tâm giải quyết.
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tích cực được sử dụng thường xuyên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Để khắc phục lối truyền thụ tri thức một chiều, lối học thụ động, máy móc, cần phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại, trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Phương pháp này giúp người học tự giác, tích cực, chủ động tiếp thu kiến thức. Với cách dạy học này, học sinh có nhiều điều kiện bộc lộ những suy nghĩ của mình, tạo không khí học tập sôi nổi, kích thích tất cả học sinh tham gia vào quá trình học tập; đồng thời đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra: “lấy học sinh làm trung tâm”. Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học TPVC cũng là tìm đến một phương pháp dạy học mới để giờ học văn tạo nên được những rung động tình cảm sâu sắc, phát huy tính chủ động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy – học TPVC. Trên đây là những lý do khiến tôi quyết định nghiên cứu đề tài này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Đổi mới dạy học tác phẩm Ngữ Văn trường THPT bằng phương pháp thảo luận nhóm

hình ảnh thị Nở đưa bát cháo hành cho Chí Phèo. - GV nêu vấn đề: Phân tích ý nghĩa bát cháo hành đối với Chí Phèo, thị Nở. ? Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành. - Nhận xét quá trình làm việc và hoạt động của các nhóm. - GV phân tích, giảng giải, chốt ý. - Tình yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở- người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn, lại dở hơi ấy đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo. - Chi tiết bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: + Đó là bát cháo hành do người đàn bà xấu xí dở hơi nấu, bát cháo hành của thời kỳ nghèo đói mang đến cho Chí vì lòng thương người ốm, vì sự rung động mới lạ trong lòng người đàn bà lần đầu tiên thấy mình có được một người đàn ông. + Tâm trạng: Hắn ngạc nhiên xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt, bâng khuâng trong lòng, cảm giác ăn năn và hối lỗi về những tội ác mà mình đã làm. + Bát cháo hành giúp hắn giải cảm, mồ hôi đầm đìa, tỉnh hẳn người. Và rồi tâm hồn Chí cứ thế thực sự hồi sinh: . Hắn nhớ lại bà Ba bắt hắn bóp chân, hắn chỉ thấy nhục, hắn nhận rõ sự xấu xa của mụ. . Hắn lại lo lắng cho tương lai “không thể sống bằng liều lĩnh”. Nghĩa là hắn bắt đầu ý thức cần phải thay đổi cuộc sống của mình.Và hắn bỗng khát khao được làm lương thiện. " Trời ơi hắn thèm làm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao" => Chi tiết bát cháo hành vừa là chi tiết hiện thực thúc đẩy biến cố tâm hồn Chí đã hoàn toàn thức tỉnh, Chí đang đứng trước tình huống có lối thoát là con đường trở về với cuộc sống của một con người. vừa là chi tiết thấm đẫm triết lí trữ tình, giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Hoạt động 3: Thảo luận theo nhóm: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. - Giúp HS phát triển tư duy ngôn ngữ trong việc kể lại nội dung đoạn trích theo yêu cầu của GV. - Giúp HS nắm được sự phát triển logic của tác phẩm trong diễn biến tâm lí và hành động của Chí. - Giúp HS phát triển tư duy nội tâm, bày tỏ cảm xúc, quan điểm của mình về nhân vật - HS nhớ và kể lại đoạn kết thúc tác phẩm. - GV giao nhiệm vụ cho các nhóm - Trao đổi theo nhóm. - Đại diện nhóm trình bày sản phẩm và trao đổi phản biện lẫn nhau giữa các nhóm. - Nhóm 1 - Nhóm 2 - Nhóm 3 - Nhóm 4 - Yêu cầu HS kể lại đoạn kết của tác phẩm (bằng lời của mình). - Tìm trong văn bản những từ ngữ nào cho thấy tâm trạng và hành động của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở từ chối? Những từ ngữ đó cho thấy tâm trạng của Chí Phèo như thế nào? ? Sau khi bị thị Nở từ chối, chí Phèo đã làm gì? Vì sao Chí Phèo lại đến nhà Bá Kiến mà không rẽ vào nhà thị Nở để đâm chết bà cô Thị như ý định ban đầu? - Hãy nêu ý nghĩa 3 câu nói của Chí Phèo khi đứng trước Bá Kiến? - Tao muốn làm người lương thiện! - Ai cho tao lương thiện? - Tao không thể là người lương thiện nữa. - Ý kiến của em về hành động đâm chết Bá Kiến rồi tự sát của Chí Phèo? GV tổng hợp, khái quát và rút ra nội dung trọng tâm của bài học - Nhận xét quá trình làm việc và hoạt động của các nhóm. Các từ ngữ chỉ tâm trạng và hành động: “Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười” ->Tâm trạng vui (vì chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra). “hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người”, “hắn sửng sốt” -> ngạc ngiên (sau khi đã hiểu ra sự việc). “Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay”, “hắn lăn khoèo xuống sân”->thất vọng “Hắn ôm mặt khóc rưng rức..” -> đau đớn. - Bị cự tuyệt- uống rượu -càng uống càng tỉnh - đau khổ, tuyệt vọng - khóc rưng rức - xách dao ra đi - vừa đi vừa chửi. Nhưng Chí đã quên rẽ vào nhà thị Nở mà đi thẳng đến nhà Bá Kiến bởi lúc này “hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”, chính hơi cháo hành đã giúp Chí nhận ra kẻ thù thật sự của cuộc đời mình và chính hơi cháo hành đã dẫn đường cho Chí đến nhà Bá Kiến. - Đứng trước Bá Chí dõng dạc chỉ thẳng tay vào mặt Bá đòi quyền lương thiện. Chí nói 3 câu rất gọn và rõ: + Một câu khẳng định quyết liệt: Tao muốn làm người lương thiện. Tiếng kêu tuyệt vọng của người cùng đường, đó cũng là lời cầu cứu của con người bị cự tuyệt quyền làm người. + Một câu hỏi uất ức: Ai cho tao lương thiện? Một sự thật phũ phàng và vô cùng đớn đau của một Con Người mà lại không được làm người. + Một câu khẳng định xót xa: Tao không thể là người lương thiện nữa. Lời xác nhận sự thật. => Chí Phèo muốn, Chí Phèo hỏi và Chí phèo hiểu. Sự chuyển đổi cảm xúc ấy diễn ra đầy tự nhiên không gò bó là nhờ ngòi bút nhân đạo tài tình của Nam Cao. - Chí giết kẻ thù và tự giết mình - ý thức nhân phẩm đã trở về - không bằng với cuộc sống thú vật nữa. Chí giết Bá Kiến không phải là hành động lưu manh giết người, mà đó chính là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân lao động cùng khổ đã vùng lên manh động tự phát. => Đó là hệ quả tất yếu của sự khủng hoảng và bế tắc, của cơn phẫn uất đang dâng trào và lên tới đỉnh điểm trong tâm hồn Chí. - Máy chiếu. C. LUYỆN TẬP Hoạt động 1: Viết sơ đồ thể hiện diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở - Giúp học sinh nắm vững kiến thức của bài học. Phát triển tư duy ngôn ngữ, giao tiếp. Hoạt động nhóm. - Học sinh thảo luận theo nhóm và viết lại ý kiến ra giấy. - Trình bày trao đổi phản biện giữa các nhóm. Giáo viên giao việc và gợi ý cho học sinh trình bày theo các nội dung: + Tâm trạng của Chí Phèo sáng hôm sau (1) + Tâm trạng Chí Phèo khi ăn bát cháo hành do thị Nở nấu. (2) +Tâm trạng của Chí Phèo khi bị thị Nở cự tuyệt (3) Ý kiến của các nhóm: +(1): Tỉnh táo àcảm nhận âm thanh cuộc sống à ước mơ thuở xưaà hiện tại: già nua, cô độc. +(2)Ngạc nhiênà Mắt ươn ướt à Bâng khuângà Độc thoại nội tâm+Ăn năn à Vui như trẻ conà Khát khao hạnh phúc gia đình +(3)Ngạc nhiên + sửng sốtà Đuổi theo, níu kéoà Bị cự tuyệt-khóc à Tuyệt vong à Uất hận, đi trả thù Hoạt động 2: Theo em, thông điệp mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm là gì? Khắc sâu ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm Hoạt động nhóm -Học sinh thảo luận theo nhóm - Trình bày trao đổi phản biện giữa các nhóm. Giáo viên định hướng cho học sinh thảo luận theo gợi ý: + Dựa vào đâu để tìm ra thông điệp đó? + Thông điệp đó là gì? + Thông điệp đó còn có ý nghĩa trong c/s hôm nay? Ý kiến của các nhóm: - Dựa vào những lời nói cuối cùng của Chí Phèo : "Tao muốn làm người lương thiện”. “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách... biết không... Chỉ còn một cách là... cái này! Biết không!...’’ - Con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ, dù bị chà đạp, bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi thì ẩn sâu trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những tia sáng của bản tính lương thiện, bản chất người. Hoạt động 3: Dựa vào những hiểu biết, em hãy so sánh 2 tác phẩm Lão Hạc và Chí Phèo để thấy nội dung hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm của Nam Cao? - Giúp học sinh mở rộng kiến thức về quan điểm, nội dung sáng tác của Nam Cao. - Tăng cường củng cố cách đọc. - Học sinh nhớ lại kiến thức đã học để tổng hợp. - Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Văn bản so sánh: - Giống nhau: + Đều khai thác đề tài số phận người nông dân nghèo ở vùng nông thôn Việt Nam dưới ách chế độ thực dân phong kiến. + Nhà văn phản ánh chân thực và sâu sắc nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị. + Thể hiện sự đồng cảm của nhà văn đối với bi kịch của người nông dân nghèo và phát hiện ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp ở họ. - Khác nhau: Mỗi tác phẩm nhà văn có sáng tạo riêng: + Lão Hạc là một người nông dân có bản chất lương thiện. Lão đã chọn cái chết để giữ được mảnh vườn cho con trai. + Chí Phèo khốn cùng hơn Lão Hạc. Bất hạnh từ khi sinh ra đến lúc kết thúc cuộc đời. Bị tha hóa, lưu manh hóa và bị từ chối quyền làm người những vẫn khát khao cuộc sống lương thiện. D. VẬN DỤNG, MỞ RỘNG SÁNG TẠO Hoạt động 1: Nếu được thay đổi phần kết truyện “Chí Phèo”, em muốn một kết thúc truyện như thế nào? Vì sao? - Giúp học sinh cảm nhận sâu hơn ý đồ nghệ thuật, tư tưởng của Nam Cao, đồng thời khơi gợi ở học sinh khả năng phản biện, sáng tạo. Học sinh trả lời câu hỏi ở nhà và có thể trình bày trên lớp. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà và kiểm tra - Hoàn thành câu trả lời trong vở. - Viết được đoạn kết theo mong muốn/trí tưởng tượng của học sinh. Hoạt động 2: Nếu ở hoàn cảnh của nhân vật Chí Phèo khi bị mọi người xa lánh, ruồng bỏ em sẽ xử sự như thế nào? - Giúp học sinh biết xử lý tình huống trong cuộc sống. - Viết đoạn văn. Học sinh trả lời ở nhà và có thể trình bày trên lớp. Hướng dẫn học sinh tự học và bổ sung góp ý cho nhau. - Hoàn thành câu trả lời trong vở. - Viết được đoạn văn. 8. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT (nếu có) 9. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN - Đối với lãnh đạo cấp cơ sở: Cần quan tâm, sát sao trước những vấn đề đổi mới của ngành giáo dục; trang bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị, đồ dùng dạy họcđể giáo viên tích cực lĩnh hội và áp dụng những đổi mới cả về hình thức và nội dung dạy học. - Đối với giáo viên: Trước hết giáo viên cần phải nắm vững nội dung chương trình; các kiến thức kĩ năng, nâng cao và phần liên hệ thực tế, liên môn. Chủ động tìm hiểu và lĩnh hội những vấn đề mới nhằm đáp ứng yêu cầu về giáo dục trong tình hình mới của đất nước. Đồng thời để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động, giáo viên phải có cách dẫn dắt và xử lý tình huống linh hoạt. Giáo viên cần có thời gian để xây dựng nội dung chuyên đề thảo luận và định hướng các hoạt động. - Đối với học sinh: Cần chủ động, linh hoạt sáng tạo, luôn tư duy nhanh nhạy để phát hiện vấn đề, luôn biết thể hiện được quan điểm cá nhân của bản thân mình trong việc xử lý tình huống. 10. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM * Bảng kết quả khảo sát Các lĩnh vực Đồng ý Không đồng ý Không có ý kiến Số HS % Số HS % Số HS % Học sinh thích giáo viên sử dụng phương pháp TLN trong giờ dạy TPVC. 30 80 8 20 0 0 Sử dụng phương pháp TLN là cần thiết trong việc phân tích TPVC. 31 82 7 18 0 0 Việc vận dụng phương pháp TLN phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tinh thần tự học của học sinh. 32 84 6 16 0 0 Phương pháp TLN giúp phát huy năng lực cộng tác, năng lực giao tiếp cho học sinh. 29 76 9 24 0 0 TLN giúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn. 32 84 6 16 0 0 Việc áp dụng phương pháp TLN rất mất thời gian làm cho giáo viên ít có thời gian bình giảng sâu. 30 80 8 20 0 0 *Bảng thống kê điểm kiểm tra với đề bài: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao? Lớp Số HS Điểm/số học sinh đạt điểm Tổng số điểm Điểm trung bình 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Lớp thực nghiệm 11A7 38 0 0 0 0 4 8 12 10 4 0 268 7.05 Lớp đối chứng 11A6 37 0 0 2 5 11 10 7 2 0 0 206 5.5 Từ kết quả thực nghiệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng đa số học sinh thích giờ học có vận dụng phương pháp TLN. Dạy TPVC có sử dụng phương pháp TLN thì bài làm của học sinh đạt kết quả cao hơn. Phương pháp này phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định. 11. DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN THAM GIA ÁP DỤNG THỬ NGHIỆM HOẶC ĐÃ ÁP DỤNG LẦN ĐẦU. Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Lớp 11 A7 Trường THPT Đồng Đậu Môn Ngữ Văn 2 Lớp 11 A6 Trường THPT Đồng Đậu Môn Ngữ Văn PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Qua việc tìm hiểu cách vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giờ dạy TPVC, chúng tôi nhận thấy: Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh, là một trong những phương pháp thích hợp để vận dụng vào dạy TPVC. Phương pháp này có thể giúp học sinh tự giác, hứng thú tìm hiểu hiểu tác phẩm, từng bước tri giác ngôn ngữ đế tưởng tượng, phân tích, khái quát theo con đường cảm xúc hóa phù hợp với quy luật cảm thụ văn chương Dựa vào cơ sở lí luận của phương pháp thảo luận nhóm, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu, đưa ra những nguyên tắc vận dung phương pháp thảo luận nhóm nhằm nâng cao hiệu quả dạy học TPVC là: khi vận dụng phương pháp này cần chú trọng vào các khâu như xây dựng câu hỏi thảo luận, thành lập nhóm và quan sát, hỗ trợ cũng như tổng kết đánh giá của giáo viên. Câu hỏi thảo luận phải là câu hỏi mang tính vấn đề, có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết. Câu hỏi phải được đặt ra từ bản thân của tác phẩm văn chương có nhiều ẩn số cần được giải mã về nội dung và hình thức và từ vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ tầm đón nhận của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Việc thành lập nhóm dựa trên số lượng học sinh trong lớp và nội dung bài học. Giáo viên cần phải quan sát học sinh trong quá trình thảo luận và gợi mở khi học sinh gặp phải bế tắc. Do sự thành công khi vận dung phương pháp này nằm ở khâu đưa ra vấn đề thảo luận nên chúng tôi tiến hành xây dựng các dạng bài tập có thể vận dụng với phương pháp này. Cần lưu ý là phương pháp thảo luận nhóm không phải là phương pháp sư phạm độc tôn. Nó cũng có những hạn chế nhất định. Trong quá trình dạy TPVC, giáo viên cần vận dụng phối hợp nhiều phương pháp khác thì bài dạy mới mang lại hiệu quả cao. Áp dụng phương pháp TLN trong giảng dạy tác phẩm văn chương theo tôi nghĩ là cần thiết trong hướng đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay. Chính vì vậy tôi rất mong nó được áp dụng rộng rãi, để mỗi tiết học không khô khan cứng nhắc, một chiều. Trên đây chỉ là những sáng kiến của riêng cá nhân tôi. Rất mong có sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn chỉnh hơn. Trân trọng! ......., ngày.....tháng......năm...... Thủ trưởng đơn vị/ Chính quyền địa phương (Ký tên, đóng dấu) ........, ngày.....tháng......năm...... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ (Ký tên, đóng dấu) Yên Lạc, ngày 10 tháng 02 năm 2020 Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên) Phạm Thị Phượng TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đặng Thành Hưng (2000), Dạy học hiện đại. Lí luận - biện pháp- kĩ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn trường phổ thông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh (2003), Phương pháp dạy văn, tập 1, Nxb Giáo dục. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (2005), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Trọng Sửu (2008), ‘Dạy học nhóm, phương pháp dạy học tích cực’, Tạp chí giáo dục số 171. Đổi mới phương pháp dạy môn ngữ văn, Gs Trần Đình Sử, Bài viết trên báo điện tử online.
File đính kèm:
skkn_doi_moi_day_hoc_tac_pham_ngu_van_truong_thpt_bang_phuon.doc
Đơn.doc