SKKN Giải pháp góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thông qua một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn Lớp 9
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện về tri thức lẫn nhân cách. Vì vậy, những đổi mới trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay là nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Cho nên, giáo dục ngoài việc trang bị hệ thống kiến thức cho học sinh cần phải trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn, gọi chung là kĩ năng sống.
Đây là trách nhiệm chung của cả gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó có vai trò của người giáo viên. Để làm được điều này, người giáo viên ngoài những yêu cầu về kiến thức chuyên môn, đòi hỏi phải nắm vững và có phương pháp giáo dục kĩ năng sống phù hợp, tạo điều kiện để các em cảm nhận được không khí thân thiện với trường lớp, với gia đình và với mọi người. Tuy nhiên, tùy theo lứa tuổi, bậc học và môn học mà người giáo viên có những biện pháp giáo dục khác nhau.
Đối với học sinh THCS, đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi về mặt tâm sinh lí. Các em đang được hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động,… Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên phải chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ và phát triển lệch lạc về nhân cách. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, hài hòa và lành mạnh. Ở cấp học THCS, chúng ta có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em ở tất cả môn học, trong đó có môn Ngữ văn. Nhiều bài học của môn Ngữ văn hướng đến việc giúp các em nhận thức được giá trị cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
Điều quan trọng là chúng ta làm cách nào để giáo dục kĩ năng sống vào trong môn học một cách khéo léo, linh hoạt và phù hợp với đặc trưng môn học. Để làm được điều này phụ thuộc rất nhiều vào nội dung, cách thức và phương pháp của mỗi thầy cô giáo dạy Văn chúng ta. Việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào trong môn học đã được tiến hành ở môn Ngữ văn tuy nhiên vẫn còn nhiều mới mẻ, cho nên nhiều giáo viên còn lúng túng, vụng về trong phương pháp, cách thức tiến hành, đôi lúc còn gượng ép, thiếu tự nhiên, dẫn đến hiệu quả chưa cao; và ngược lại có một số giáo viên còn quá sơ sài, hoặc quá tràn lan làm ảnh hưởng đến việc truyền tải các đơn vị kiến thức môn học.
Chính từ những lí do trên, cùng với kinh nghiệm thực tế được tích lũy trong phương pháp giảng dạy và cách thức tiến hành giáo dục kĩ năng sống ở môn Ngữ văn lớp 9 mà bản thân đã thực hiện, tôi xin mạnh dạn nêu lên: “Giải pháp góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thông qua một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn lớp 9”
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Giải pháp góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thông qua một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn Lớp 9

g một bài dạy. + Xác định phương pháp, kĩ thuật dạy học sẽ sử dụng ở những nội dung bài học. Sau đây là ví dụ minh họa cho kế hoạch giáo dục kĩ năng sống mà tôi đã xây dựng trong các bài: Phong cách Hồ Chí Minh; Phương châm hội thoại; Đấu tranh cho một thế giới hòa bình. Tuần Tiết Bài Tên bài Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục Phương Pháp Sử dụng 1 1-2 1 Phong cách Hồ Chí Minh - Xác định giá trị bản thân: từ việc tìm hiểu vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh (kết hợp tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc và nhân loại) xác định được mục tiêu phấn đấu theo phong cách Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế. - Giao tiếp: trình bày, trao đổi về nội dung của phong cách Hồ Chí Minh trong văn bản. - Động não. - Thảo luận nhóm, trình bày 1 phút. 1 - 2 3- 8 1-2 Các phương châm hội thoại - Ra quyết định: lựa chọn cách vận dụng các phương châm hội thoại trong giao tiếp của bản thân. - Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng, trao đổi về đặc điểm, cách giao tiếp đảm bảo các phương châm hội thoại. - Phân tích tình huống. - Thực hành có hướng dẫn. - Động não. 2 6 -7 2 Đấu tranh cho một thế giới hòa bình - Suy nghĩ, phê phán, sáng tạo, đánh giá, bình luận về hiện trạng nguy cơ chiến tranh hạt nhân hiện nay. - Giao tiếp: trình bày ý tưởng của cá nhân, trao đổi về hiện trạng và giải pháp để đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, xây dựng một thế giới hòa bình. - Ra quyết định về những việc làm cụ thể của cá nhân và xã hội vì một thế giới hòa bình. - Thảo luận lớp. - Minh họa hình ảnh. - Vẽ tranh. 3 11-12 3 Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em - Tự nhận thức về quyền được bảo vệ và chăm sóc của trẻ em và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. - Xác định giá trị bản thân cần hướng tới để bảo vệ và chăm sóc trẻ em. - Giao tiếp: thể hiện sự cảm thông với những hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh của trẻ em - Thảo luận lớp. - Minh họa tranh ảnh. - Động não. - Lập kế hoạch nhóm. Ví dụ: Trong bài “Tuyên bố thế thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em”, từ kế hoạch trên, tôi xác định kĩ năng sống cần rèn luyện cho các em là kĩ năng tự nhận thức về quyền được bảo vệ và chăm sóc của trẻ em và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tôi cho các em thảo luận nhóm với câu hỏi: Qua bản Tuyên bố trên, em hiểu như thế nào về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như sự quan tâm của cộng đồng quốc tế về vấn đề này? Đồng thời, qua hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên còn tiếp tục rèn luyện cho các em kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp. 2. Biện pháp 2: Phân loại học sinh, quan tâm đến từng đối tượng học sinh để có phương pháp cũng như vận dụng các kĩ thuật dạy học đúng và phù hợp với những đối tượng học sinh đó. Bắt đầu vào năm học mới, giáo viên cần phân loại học sinh trong lớp theo các mức: giỏi, khá, trung bình, yếu kém bằng nhiều hình thức như kiểm tra trắc nghiệm, vấn đáp, Chúng ta biết rằng, trong một lớp học sẽ có rất nhiều đối tượng học sinh, nhiều hoàn cảnh, môi trường sống khác nhau, năng lực bản thân và trình độ mỗi em cũng khác nhau. Nếu giáo viên đưa ra những câu hỏi, hình thức hoạt động quá khó, vượt tầm so với những học sinh yếu, trung bình, các em sẽ không giải quyết được, từ đó sẽ dẫn đến tình trạng chán học, lười học, không khí giờ học cũng buồn tẻ, nhàm chán, kết quả học tập sẽ giảm sút, gây ảnh hưởng đến lớp học. Nếu câu hỏi quá dễ sẽ không phát huy, kích thích, khơi gợi năng lực bản thân, chất lượng học tập của những học sinh khá giỏi. Đó là chưa kể đến sự chênh lệch giữa lớp này với lớp khác. Đầu năm học, tôi đã cho học sinh làm một bài kiểm tra ngắn, sau khi thu được kết quả, tôi đã xếp học sinh vào các nhóm đối tượng. Sau khi phân loại từng đối tượng học sinh, giáo viên cần xác định các kĩ năng sống cần thiết ở mỗi hoạt động cơ bản của bài, những phương pháp dạy học và các kĩ thuật dạy học cho từng đối tượng học sinh cụ thể. Đồng thời, trong quá trình đặt câu hỏi, giáo viên cần nêu câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp và phân loại được từng đối tượng học sinh và bám sát vào nội dung bài học. Ví dụ: Khi dạy ở lớp 9 B, tiết 6 – 7, bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”, tôi lần lượt tiến hành các bước dạy cho từng đối tượng học sinh như sau: - Tìm hiểu về “nguy cơ chiến tranh hạt nhân”: GV: Nguy cơ chiến tranh hạt nhân và sức hủy diệt của nó đã được tác giả chỉ ra bằng những dẫn chứng nào? (Dành cho nhóm đối tượng học sinh yếu, trung bình – Rèn kĩ năng tìm kiếm thông tin). - Phần tổng kết: GV: Nêu suy nghĩ, cảm nhận của em về nguy cơ chiến tranh hạt nhân hiện nay trên thế giới? (Dành cho tất cả các nhóm đối tượng học sinh – Rèn kĩ năng nhận thức và giao tiếp). - Liên hệ bản thân: Em sẽ làm gì để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, đem lại một thế giới hòa bình? (Dành cho nhóm học sinh từ trung bình trở lên – Rèn kĩ năng tự nhận thức, thể hiện sự tự tin, giao tiếp). - Phần củng cố: Giáo viên cho học sinh thảo luận câu hỏi: Vì sao văn bản này lại đặt tên là “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”? (Dành chủ yếu cho nhóm học sinh khá, giỏi – Rèn kĩ năng hợp tác, ra quyết định, giải quyết vấn đề). 3. Biện pháp 3: Cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần rèn luyện cho học sinh ở các hình thức rèn luyện Giáo viên cần cụ thể nội dung của những kĩ năng sống qua các hình thức ra câu hỏi, các hoạt động, kĩ thuật dạy học mà mình tiến hành. Đối với phần liên hệ bản thân, giáo viên chủ yếu rèn cho các em tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thể hiện sự tự tin,. Giáo viên cần rèn cho các em biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, các em cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là những kĩ năng cơ bản và khá quan trọng. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẵn sàng học và tiếp nhận nhiều điều. Đặc biệt, giáo viên sẽ đỡ mất thời gian, công sức trong việc soạn giảng bài dạy, sẽ dễ dàng hơn trong quá trình rèn luyện kĩ năng cho học sinh, hình thành cho các em một thói quen, một phản xạ có điều kiện trước mỗi nội dung, mỗi vấn đề của bài học. Từ kiến thức bài học, các em có được kĩ năng sống tốt đẹp, cần thiết cho bản thân. Các em có thể rút ra bài học cho bản thân từ nét đẹp cần phải học tập từ lối sống, phong cách của Bác Hồ, hoặc lý tưởng sống cao đẹp, sự hy sinh thầm lặng của anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”,. Hơn nữa, nếu làm tốt phần này, giáo viên lại càng bám sát đúng theo chuẩn kiến thức, kĩ năng mà Bộ giáo dục đã đề ra. Ví dụ: Giáo viên có thể đặt những câu hỏi như: Em rút ra bài học gì cho bản thân từ lối sống giản dị mà thanh cao của Bác?; Nêu cảm nhận của em về nét đẹp trong lối sống, phong cách của Bác? (Bài “Phong cách Hồ Chí Minh”) Đối với phần thảo luận nhóm, giáo viên rèn cho học sinh các kĩ năng như: hợp tác, lắng nghe tích cực, thương lượng, giải quyết vấn đề, Thực tế trong cuộc sống, các em cũng sẽ gặp những tình huống tương tự như vậy. Giáo viên cần xác định những kĩ năng sống thực sự cần thiết như vậy để các em thích ứng và có cách xử lí kịp thời. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần linh động ở mỗi bài dạy, mỗi đơn vị kiến thức, mỗi lớp, không nên vận dụng một cách quá máy móc, cứng nhắc. Giáo viên nên đơn giản bằng cách rèn cho các em những kĩ năng gần gũi, quen thuộc, cơ bản và cần thiết nhất như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tự tin, xác định giá trị của bản thân, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề,. Vì thực tế, trong một hình thức, một hoạt động nào đó mà nhiều kĩ năng sống đã được chúng ta rèn luyện cho các em. 4. Biện pháp 4: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp Sau tiết dạy, trong phần hướng dẫn học sinh học bài, chuẩn bị bài ở nhà, thông thường các giáo viên thường ít để ý hoặc dành quá ít thời gian cho phần này. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh lười biếng, thói quen ỉ lại, chất lượng học tập giảm sút, làm cho các em mất luôn những kĩ năng sống tối thiểu. Cho nên, đối với bài cũ, ngoài việc cho các em nắm chắc kiến thức, cần hướng dẫn các em những kĩ năng làm bài tập, đặc biệt đối với những tình huống bài tập khó, căng thẳng. Giúp các em rèn được những kĩ năng như: ứng phó với căng thẳng, giải quyết vấn đề, tìm kiếm sự hỗ trợ, đạt mục tiêu, Làm tốt điều này, không những rèn luyện, giáo dục được kĩ năng sống cho các em mà còn nâng cao được chất lượng học tập của học sinh và chất lượng giảng dạy của giáo viên. Ví dụ: + Đối với bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”, giáo viên có thể chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các em về nhà vẽ tranh thể hiện hiện ý tưởng và nhận thức của bản thân về nguy cơ chiến tranh và cuộc đấu tranh vì một thế giới hòa bình. + Sau bài “Thư (điện) chúc mừng, thăm hỏi”, giáo viên cho học sinh về nhà thực hành viết thư (điện) chúc mừng, thăm hỏi phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Đối với việc chuẩn bị bài mới, giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc bài, soạn bài trước khi đến lớp, ghi rõ những nội dung kiến thức chưa hiểu để đến lớp cùng thầy cô giáo giải đáp, dăn dò học sinh tìm kiếm, chuẩn bị những tư liệu cần thiết cho tiết học mới. Ví dụ: Trước khi học bài “Phong cách Hồ Chí Minh”, giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm về sưu tầm trước những mẩu chuyện, tranh ảnh, nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Bác. Từ đó rèn thêm cho các em kĩ năng hợp tác, tìm kiếm và xử lí thông tin,. 5. Biện pháp 5: Rèn luyện kĩ năng sống thông qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa về văn học. Ngoài những tiết học Ngữ văn chính khóa, khi có điều kiện thì giáo viên nên tổ chức cho các em các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chúng ta biết rằng, ngoại khóa chính là một sân chơi thoải mái, bổ ích. Ở đó, các em có dịp được giao lưu, tiếp xúc, được thể hiện năng lực bản thân. Giáo viên có thể tổ chức các hình thức như: câu hỏi “Vui để học” về kiến thức văn học, đi tham quan các di tích có liên quan đến văn học, các Câu lạc bộ sáng tác thơ, diễn kịch, như dựng lại đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán” (bài đọc thêm) mà các em chưa được tìm hiểu trên lớp, trong các tiết chính khóa. Hoặc sau khi học xong bài “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em”, giáo viên cho các em lập kế hoạch nhóm đến thăm một lớp học tình thương hoặc trẻ em khuyết tật, Chính từ đó, các em sẽ thể hiện được năng khiếu của bản thân, thể hiện được kĩ năng giao tiếp, sự cảm thộng, tự xác định được giá trị của bản thân, các em tự tin hơn trong giao tiếp, khi đứng trước mọi người và trong cuộc sống. IV/ Kết quả: Sau khi tiến hành áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi đã cho học sinh làm bài kiểm tra khách quan, kết quả cụ thể như sau: - Em có thể làm gì để góp phần đấu tranh cho một thề giới hòa bình, ngăn chặn và xóa bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân? Lớp Tổng số Phân loại đối tượng học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém 9.B 35 5 16 12 2 0 Qua bảng điều tra cũng như thực tế cho thấy đa số các em đã có hứng thú hơn đối với môn học nói riêng và học tập nói chung, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Điều này đã phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, người thầy “đóng vai trò chỉ là người hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tự tìm tòi, khám phá tri thức”. Rèn luyện được các kĩ năng sống tích cực cho các em như tự tin, mạnh dạn khi trình bày một vấn đề trước tập thể, tính tự lập, tinh thần tập thể,Ngoài ra, còn giúp cho việc học tập các môn học và tham gia các hoạt động giáo dục của học sinh trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, thiết thực và hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số rất ít em học lực yếu, ý thức học tập chưa cao, lười ghi chép và làm bài, thiếu tư duy, hoạt động nhóm còn mất trật tự. V/ Bài học kinh nghiệm: Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông được thực hiện thông qua dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo nhưng không phải là lồng ghép, tích hợp thêm kĩ năng sống vào nội dung các môn học và hoạt động giáo dục; mà theo cách tiếp cận mới, đó là sự dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung các môn học; mà ngược lại còn làm cho các giờ học và hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh. Bên cạnh đó, giáo dục kĩ năng sống là một quá trình lâu dài, toàn diện, mọi lúc, mọi nơi. Cho nên, giáo viên cùng nhà trương cần kết hợp với gia đình để giáo dục kĩ năng sống cho các em. Cần giáo dục để các em cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ múôn giáo dục các em biết tự giữ kỷ luật, trứơc hết cần đánh thức sự tự ý thức của các em, cố gắng khơi gợi để các em luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân các em. Người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và tạo điều kiện tốt nhất cho các em. C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận. Qua thời gian áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi cảm thấy bản thân dần dần có ý thức giáo dục kĩ năng sống ngay từ bước soạn bài; cũng như vào trong tiết học ngay khi có thể; không còn hời hợt, thiếu quan tâm đối với việc giáo dục kĩ năng sống vào trong bài dạy như ngày trước.Việc áp dụng cũng không còn mang hình thức, đối phó mà trở thành ý thức và kĩ năng của mỗi giáo viên. Đề tài cũng đã góp phần làm đa dạng, phong phú thêm cho phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng đổi mới tích cực hiện nay. Và điều quan trọng hơn, tôi thấy bản thân các em đã có ý thức sâu sắc về việc rèn luyên kĩ năng sống, hiểu rõ tầm quan trọng kĩ năng sống đối với cuộc sống các em. Ngoài ra, một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống nêu trên đã làm cho tiết dạy Ngữ văn thêm sinh động, sôi nổi và tích cực. Kĩ năng sống đi vào tiết Ngữ văn trở nên linh hoạt, mềm dẻo, không còn cứng nhắc, máy móc và mang tính thực tế, thiết thực hơn; đi vào cuộc sống thực tế cũng khá tự nhiên, phù hợp. II. Kiến nghị Kĩ năng sống rất đa dạng và mang đặc trưng vùng, miền.Việc sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện dạy học cụ thể. Vì vậy, giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng trường. Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân, mà tôi đã thực hiện, xin mạnh dạn trình bày để quí đồng nghiệp cùng tham khảo. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp! Tôi xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 9-NXB GD. 2. Sách giáo viên Ngữ Văn 9-NXB GD. 3. Bồi dưỡng HSG Ngữ Văn THCS quyển 5.-NXB GD Việt Nam 4. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở trường THCS - NXB GD. Hà Tĩnh, ngày 12 tháng 10 năm 2016
File đính kèm:
skkn_giai_phap_gop_phan_xay_dung_truong_hoc_than_thien_hoc_s.doc