SKKN Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học văn bản nghị luận trung đại môn Ngữ Văn Lớp 8 ở Trường THCS Trần Đại Nghĩa
Văn học trung đại (VHTĐ) Việt Nam là bộ phận văn học gắn liền với một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước. Giai đoạn lịch sử này đã để lại một di sản văn học vô cùng quý báu, đồ sộ về khối lượng; phong phú, đa dạng về nội dung; đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản này, chúng ta càng thêm gắn bó với truyền thống cao đẹp của dân tộc. Bởi lẽ “Mỗi tác giả với thiên tài của mình và giới hạn của thời đại, phản ánh một thời kì lịch sử, đánh dấu một bước tiến của văn học, làm giàu thêm cho tư tưởng, tình cảm và tiếng nói Việt Nam” (Phạm Văn Đồng).
Trong nhiều năm trở lại đây, các phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã được chú trọng (kể cả việc ứng dụng công nghệ thông tin). Việc đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy khiến người giáo viên đứng lớp cần đổi mới cách dạy học, đầu tư nhiều hơn trong quá trình giảng dạy. Trên thực tế, việc giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở trường THCS lại gặp không ít khó khăn, phần nhiều giáo viên e ngại giảng dạy các văn bản này. Việc rút ngắn khoảng cách để học sinh dễ dàng tiếp nhận nội dung văn bản là điều không đơn giản (nhất là với thế hệ giáo viên trẻ khi vốn kiến thức, hiểu biết văn hóa thời trung đại còn hạn chế). Bản thân giáo viên cũng còn nhiều lúng túng khi khai thác các tác phẩm văn học cổ, nhất là về mặt từ ngữ. Các tác phẩm giai đoạn này hay dùng điển tích, điển cố và để cho học sinh hiểu thấu đáo được phải giải thích thành một câu chuyện dài. Cũng có khi giáo viên chưa hiểu hết ý nghĩa của các điển cố đó vì chưa có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu kĩ càng vì vậy việc giải thích không thể giải thích cho học sinh hiểu thấu đáo được. Trong quá trình giảng dạy VHTĐ, giáo viên thường chỉ chú ý khai thác nội dung làm toát lên những quan điểm tư tưởng của tác giả đề cập mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của tác phẩm cũng như các vấn đề có liên quan khác, vì thế việc dạy các tác phẩm nghị luận thường khô, không hấp dẫn. Hơn nữa có một thực tế phổ biến là học sinh không có hứng thú khi học văn học Việt Nam trung đại, tình trạng ngại đọc sách, nghiên cứu tài liệu và không say mê với việc tìm hiểu những vấn đề thuộc lĩnh vực trừu tượng này trở nên không còn hiếm ở các lớp. Bên cạnh đó cái hay mỗi thời mỗi khác, có những cái mà quan niệm xưa cho là hay là đẹp thì nay đã trở nên xa lạ, nếu không có vốn tri thức nhất định về văn hóa, văn học thì không thể hiểu được, vì thế các em không dễ có tâm thế sẵn sàng tiếp nhận văn bản đã ra đời cách nay nhiều thế kỉ.
Do đặc thù lịch sử nước ta và tính chất của văn nghị luận trung đại được coi trọng. Việc dạy - học văn nghị luận thật khó, dạy - học văn nghị luận ở cấp Trung học cơ sở, cụ thể là ở lớp 8, lại càng khó hơn. Từ tình hình thực tế, bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào để có thể giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại đạt hiệu quả? Làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm văn học Việt Nam trung đại đễ dàng hơn? Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm: Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học văn bản nghị luận trung đại môn Ngữ văn lớp 8 ở trường Trung học cơ sở Trần Đại Nghĩa.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học văn bản nghị luận trung đại môn Ngữ Văn Lớp 8 ở Trường THCS Trần Đại Nghĩa

iên nhằm kích thích ý chí chiến đấu và niềm tin chiến thắng, thấy được phải trái, thấy được sức mạnh chính nghĩa. Vì vậy, giáo viên phải phân tích sự phản ánh tâm lí trong ngôn ngữ và tác dụng của ngôn ngữ đối với tâm lí trong bài hịch như: + Khi phân tích đoạn nói về tội ác của bọn giặc cần chú ý đến các từ ngữ “ đi lại nghênh ngang”, “sỉ mắng triều đình”, “bắt nạt tể phụ”, “đòi ngọc lụa”, “vét của kho” nhằm cụ thể hóa những hành vi ngạo mạn vi phạm chủ quyền quốc gia dân tộc Đại Việt của bọn sứ giả phương Bắc. Hay các hình ảnh ẩn dụ “ cú diều”, “dê chó”, “hổ đói” để không chỉ nói lên tính gian manh, ác thú của kẻ thù mà còn thấy được thái độ của người viết. + Khi phân tích đoạn ghi lại thái độ căm thù cao độ và lòng yêu nước sục sôi của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn ... ta cũng vui lòng” thì không thể bỏ qua các động từ “ xả, lột, nuốt, uống” và các điển tích “trăm thân, nghìn xác” gây xúc động lòng người, tạo sự đồng cảm của các tướng sĩ. Với bài “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn, yêu cầu về thể loại là dùng để ban bố mệnh lệnh. “Chiếu dời đô” gắn với một sự kiện lịch sử - chính trị hết sức quan trọng của năm 1010 đưa đến một bước ngoặt vĩ đại cho sự phát triển của dân tộc Đại Việt. Ngoài việc thể hiện chức năng của thể Chiếu, văn bản này còn có đặc điểm riêng là tính chất tâm tình bên cạnh tính chất mệnh lệnh, bên cạnh ngôn ngữ đơn thoại một chiều của vua còn có ngôn từ mang tính chất đối thoại, trao đổi. Vì vậy, giáo viên cần làm rõ để thấy được tâm tư, tình cảm của người ban Chiếu đã tạo được sự giao cảm, đồng lòng của nhân dân trong nước qua những câu “Trẫm rất đau xót về việc đó”, “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”. Ngôn ngữ có tính chất đối thoại này không chỉ tạo nên sự đồng cảm giữa mệnh lệnh của vua và thần dân mà còn tạo nên sự thuyết phục cho bài Chiếu. Với bài “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi, nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Bình Ngô đại cáo hạ một chữ như đổ một trái núi”. Hình như Nguyễn Trãi đã cân nhắc từng chữ, từng lời, từng ý; mỗi chữ dùng đều chọn lọc sao cho có sức biểu cảm âm vang, tất cả đều hợp lí. Vì vậy giáo viên cần cho học sinh thấy rõ lời văn trang nghiêm, trịnh trọng, đanh thép, uy nghi trong bài Cáo. Với bài “Bàn luận về phép học” của Nguyễn Thiếp, giáo viên cần làm rõ sự đúng đắn, tiến bộ, vượt thời đại trong phương pháp học, mục đích học tập của tác giả. Muốn vậy giáo viên cần giải thích rõ câu châm ngôn “Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo” hay các lối học “hình thức, cầu danh lợi, không biết tam cương ngũ thường” và phương pháp học tập đúng đắn. Như thế học sinh sẽ nắm được sự tiến bộ trong quan điểm của Nguyễn Thiếp. Nói tóm lại, mỗi thể loại văn nghị luận cổ có những đặc trưng riêng, khi giảng dạy các từ ngữ trong từng thể loại, giáo viên cần chú ý đến những đặc trưng cơ bản đó để giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn. 2.7. Dùng sơ đồ tổng kết bài học. Do đặc điểm các văn bản đều thuộc văn nghị luận nên trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn bám sát hệ thống luận điểm, luận cứ và nghệ thuật lập luận đầy sức thuyết phục. Vì thế việc lập sơ đồ không chỉ để học sinh nắm bắt nội dung mà còn có thể biết cách làm văn nghị luận. Ví dụ: Hệ thống luận điểm trong “Chiếu dời đô” Ý TƯỞNG DỜI ĐÔ TỪ HOA LƯ VỀ ĐẠI LA LÝ DO DỜI ĐÔ KHỎI HOA LƯ Ý CHÍ ĐỊNH ĐÔ MỚI Ở ĐẠI LA Gương sáng đời xưa Thực tế hai triều Đinh và Lê Lịch sử Trung Hoa có nhiều lần dời đô (Thương, Chu) - Đất nước phát triển - Các triều đại tồn tại lâu dài Đóng đô mãi ở một nơi nên gặp khó khăn Đất nước không phát triển, tồn tại ngắn ngủi Những lợi thế của Đại La Về lịch sử Cao Vương từng định đô Về địa lý Thuận lợi nhiều mặt Về tiềm năng Kính tế, văn hoá phát triển Ý CHÍ CỦA NHÀ VUA: - Quyết định dời đô. - Hỏi ý kiến bề tôi. Hệ thống lập luận trong bài “Hịch tướng sĩ” Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước, vì chủ tướng bằng cách nêu ra những tâm gương trung thần thời xưa. Khích lệ lòng căm thù giặc, nỗi nhục mất nước bằng cách vạch trần và tố cáo tội ác, thái độ của giặc trên đất nước mình Khích lệ lòng trung quân ái quốc bằng cách khơi gợi những ân tình của chủ tướng đã dành cho tướng sĩ. Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người khi nhận rõ cái sai thấy rõ điều đúng bằng thái độ phê phán, nghiêm khắc. Khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược; đánh bại tư tưởng thờ ơ, xa lánh, bàng quan để sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu sinh tử. Hệ thống lập luận trong bài “Nước Đại Việt ta” NGUYÊN LÍ NHÂN NGHĨA Yên dân Bảo vệ đất nước để yên dân Trừ bạo Giặc Minh xâm lược CHÂN LÍ VỀ SỰ TỒN TẠI ĐỘC LẬP CÓ CHỦ QUYỀN CỦA DÂN TỘC ĐẠI VIỆT Văn hiến lâu đời Lãnh thổ riêng Lịch sử riêng Phong tục riêng Chế độ, chủ quyền riêng SỨC MẠNH CỦA NHÂN NGHĨA SỨC MẠNH CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC Hệ thống lập luận bài “Bàn luận về phép học” MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC HỌC: HỌC ĐẠO LÀM NGƯỜI TỐT Học tập giúp con người tốt đẹp Không thể không học tập mà thành người tốt Học tập là qui luật của cuộc sống Tác dụng: - Nhiều người tốt - Triều đình ngay ngắn - Thiên hạ thịnh trị Phê phán những lệch lạc, sai trái trong việc học hiện tại Khẳng định quan điểm; phương pháp học tập đúng đắn 2.8. Hướng dẫn học sinh liên hệ nội dung tác phẩm với cuộc sống thực tại. Sẽ vô cùng buồn tẻ nếu học sinh chỉ biết rằng mình đang học những tác phẩm của người xưa, những câu chuyện của cha ông trong quá khứ mà các em không tìm thấy ý nghĩa trong hiện tại. Giáo viên phải là người dẫn các em trở về với chân trời đầu tiên để khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm. Rồi từ chân trời đầu tiên ấy, giáo viên phải đưa các em về với hiện tại thì tác phẩm văn học mới có ý nghĩa nhất là các tác phẩm văn học trung đại, công việc ấy sẽ tạo nên sự kết nối giữa cha ông và thế hệ hôm nay. Ví dụ Dạy “Chiếu dời đô” liên hệ đến việc tìm hiểu về quá trình phát triển cũng như những thành tựu của nền văn hóa Thăng Long để thấy được cái tâm và cái tầm của vua Lí Thái Tổ; liên hệ đến việc bảo tồn di tích lịch sử văn hóa. Từ đó khơi dậy niềm kiêu hãnh và tự hào dân tộc. Từ chân lý khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của quốc gia Đại Việt trong “Nước Đại Việt ta” sẽ giúp các em biết ý thức rằng mình phải có trách nhiệm trong việc giữ gìn độc lập chủ quyền của dân tộc trong thời điểm nhạy cảm hiện nay. Dạy “Bàn luận về phép học” của Nguyễn Thiếp, giáo viên giúp các em nhận ra lối học của chính mình cũng như bạn bè mình, để thấy được đâu là lối học đúng cần phát huy, đưa các em về với mục đích học tập chân chính. Dạy “Hịch tướng sĩ” không chỉ khơi dậy niềm kiêu hãnh và tự hào dân tộc về một quá khứ vàng son mà còn giúp học sinh có nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo vệ đất nước trong thời điểm nhạy cảm hiện nay. Liên hệ với tín ngưỡng thờ cúng Trần Hưng Đạo ở khắp nơi trên đất nước để học sinh thấy được đức độ cao cả của ông. 3. Đánh giá đề tài Thực tế áp dụng kinh nghiệm: “Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học văn bản nghị luận trung đại môn Ngữ văn lớp 8 ở trường Trung học cơ sở Trần Đại Nghĩa”, trong quá trình giảng dạy tôi thấy các em thực sự hứng thú với các tiết văn học nghị luận trung đại. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái, mạnh dạn phát biểu và có hứng thú nghe, tìm hiểu các vấn đề mà các tác giả đặt ra trong văn bản nhất là khi giáo viên khơi dậy được niềm tự hào dân tộc qua văn bản Chiếu, Hịch, Cáo và liên hệ được phương pháp học của Nguyễn Thiếp với thực tế. Một số học sinh còn mạnh dạn hỏi những thắc mắc của mình ví dụ như: Tại sao đánh quân Minh mà tác giả viết “Bình Ngô đại cáo” (Nước Đại Việt ta) hay hai nhà Đinh – Lê có thực sự không tuân theo mệnh trời như Lí Công Uẩn nói không?... hay học sinh đã tìm ra được quan điểm tiến bộ và hạn chế cần bổ sung của Nguyễn Thiếp về mục đích và phương pháp học tập của Nguyễn Thiếp, để quan điểm ấy gần với ngày nay. Học sinh cũng biết liên hệ các vấn đề mà các tác giả đặt ra trong văn bản với thực tiễn ví dụ như: Vấn đề chủ quyền của đất nước trong tình hình hiện nay... 4. Tổ chức thu thập minh chứng Sau đây tôi xin đưa ra chất lượng bài kiểm tra Văn bản nghị luận trung đại của lớp 8/3 trường THCS Trần Đại Nghĩa trước khi áp dụng kinh nghiệm và sau khi áp dụng kinh nghiệm. LỚP 8/3 TT Họ và tên Điểm kiểm tra trước khi áp dụng kinh nghiệm Điểm kiểm tra sau khi áp dụng kinh nghiệm 1 Đoàn Xuân An 4,3 5,8 2 Huỳnh Gia Bảo 7,0 8,3 3 Anh Duy Bernard 4,0 5,5 4 Ngô Thái Bình 8,3 9,0 5 Nguyễn Quốc Đạt 4,5 6,3 6 Nguyễn Hoàng Đức 5,0 6,3 7 Lê Thảo Giang 5,5 7,0 8 Nguyễn Ngọc Bảo Hân 6,5 7,8 9 Lại Hồ Thanh Hiền 7,8 9,0 10 Nguyễn Thanh Xuân Hiền 6,3 7,5 11 Phạm Quốc Hoàng 6,0 7,3 12 Nguyễn Thị Hồng Huệ 6,0 7,5 13 Lê Hoàng Huy 6,5 7,5 14 Nguyễn Anh Khoa 5,0 6,0 15 Nguyễn Trung Kiên 5,8 6,8 16 Trần Hoàng Gia Linh 8,0 9,0 17 Lê Thiên Ngân 8,3 9,0 18 Trương Thị Hồng Ngân 6,0 7,8 19 Lê Việt Nhật 5,5 7,0 20 Đinh Lê Ngọc Trúc Nhi 6,8 7,8 21 Nguyễn Ngọc Yến Nhi 7,5 8,0 22 Nguyễn Thị Kiều Oanh 4,0 5,8 23 Phan Trường Phú 7,8 8,8 24 Nguyễn Đình Phúc 4,8 6,5 25 Nguyễn Ngọc Lan Phương 7,3 8,0 26 Nguyễn Ngọc Yến Quỳnh 7,0 8,3 27 Võ Tấn Tài 6,8 7,8 28 Nguyễn Chí Thanh 6,8 8,5 29 Lê Nguyễn Anh Thư 8,0 9,3 30 Phan Gia Tiến 7,8 9,0 Thông qua bảng điểm trên, tôi nhận thấy chất lượng bài kiểm tra sau khi áp dụng đề tài có nâng cao rõ rệt so với chất lượng bài trước khi áp dụng đề tài. Kết quả trước khi áp dụng đề tài: Tổng số bài kiểm tra Yếu (3,5 – dưới 5) Trung bình (5 – dưới 7) Khá (7 – dưới 9) Giỏi (9 – 10) TB trở lên SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 30 5 16,7 14 46,7 11 36,7 0 0,0 25 83,3 Kết quả sau khi áp dụng đề tài: Tổng số bài kiểm tra Yếu (3,5 – dưới 5) Trung bình (5 – dưới 7) Khá (7 – dưới 9) Giỏi (9 – 10) TB trở lên SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 30 0 0,0 8 26,7 16 53,3 6 20,0 30 100,0 III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong chương trình Ngữ văn 8, các tiết văn học nghị luận trung đại Việt Nam lâu nay vẫn cho là khó và khô khan nhưng nếu biết định hướng bài dạy hợp lý sẽ giúp cho học sinh phát huy được tính tích cực trong học tập. Qua sự hướng dẫn, gợi ý của giáo viên thì những gì các em có được là nhờ vào sự chủ động tìm hiểu, chuẩn bị bài mới, sự tự khám phá kiến thức của các em. Định hướng học sinh tiếp cận văn bản nghị luận trung đại giúp giáo viên không phải thuyết trình nhiều trong một tiết dạy. Mặt khác làm cho giờ học trở nên sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt giúp các em thấy được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn nghị luận cổ. Từ đó khơi dậy trong học sinh tình yêu, niềm tự hào dân tộc góp phần giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, quan điểm, lí tưởng thẩm mĩ...cho học sinh. Trên cơ sở đó, HS củng cố kĩ năng viết văn nghị luận. Điều quan trọng không kém trong việc định hướng học sinh tiếp cận văn bản nghị luận trung đại là rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh như: Kĩ năng tư duy độc lập, làm việc nhóm, trình bày trước tập thể, phân tích, giải quyết vấn đề... Song, định hướng học sinh tiếp cận văn bản nghị luận trung đại không có nghĩa là nhất nhất bắt học sinh lúc nào cũng phải chủ động làm việc vì trong một lớp học có rất nhiều đối tượng. Vì thế cần linh hoạt thay đổi phương pháp sao cho phù hợp song song với câu hỏi có vấn đề thì cũng cần có câu hỏi gợi mở thậm chí thuyết trình để tất cả học sinh có thể nắm được. Để dạy tốt các tác phẩm văn học nghị luận trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn 8 đòi hỏi giáo viên và học sinh có ý thức quan tâm, trân trọng giá trị của các văn bản trong chương trình vì những tác phẩm đưa vào đều đặc sắc. Giáo viên phải đầu tư cho phần soạn bài, định hướng phương pháp; học sinh phải hợp tác với giáo viên trên lớp thì tiết dạy – học mới thành công. Muốn vậy bước tiến hành bài dạy của giáo viên phải hợp lý. Trước hết giáo viên nắm chắc đặc trưng và PPDH nghị luận trung đại Việt Nam. Giáo viên cần tìm hiểu lịch sử dân tộc thời Trung Đại bởi điều này cần thiết cho việc nghiên cứu những giá trị có tính lịch sử, nhất là những những giá trị trong quá khứ và khoảng cách thời gian tạo nên sự khác biệt về cách nhìn nhận, đánh giá các hiện tượng. Đối với các văn bản đoạn trích, giáo viện nên đọc cả tác phẩm để có thể bao quát được vấn đề. Giáo viên phải nghiên cứu tổng thể kiến thức của chương trình văn nghị luận trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn 8 và nắm được đối tượng học sinh, tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy để vận dụng PPDH phù hợp. Khi lên lớp, giáo viên giữ tâm thế thoải mái, tận tâm, có trách nhiệm với từng đơn vị kiến thức của học sinh. Mặt khác cần tạo hứng thú học tập cho các em. Trong quá trình dạy học, luôn chú ý tới tất cả đối tượng học sinh và có câu hỏi phù hợp đặc biệt luôn kết hợp học và thực hành. Như vậy không chỉ hình thành kiến thức mà còn rèn kĩ năng nói - viết cho học sinh. 2. Khuyến nghị Giáo viên: cần tích lũy vốn tri thức về tác phẩm, lịch sử, các vấn đề thời sự, xã hội có liên quan để giúp HS nhận diện vấn đề nghị luận cũng như hệ thống lập luận của văn bản; cần gợi ý cho HS về những tư liệu hoặc những địa chỉ website để giúp các em có nguồn tư liệu chuẩn xác; đối với những tình huống có vấn đề, GV không nên có các kết luận cứng nhắc với tình huống mà nên gợi ý để HS có thể tranh luận với nhau về những khả năng của các phương án có thể lựa chọn. Học sinh: cần tìm hiểu văn bản trước khi học tập ở lớp nhằm khám phá văn bản ở cả lý trí và tâm hồn; nên chủ động tham gia thảo luận nhóm ngoài giờ học để có những hiểu biết về tác giả, bối cảnh xã hội, hoàn cảnh lịch sử và thời đại ra đời của tác phẩm. Nhà trường: cần tổ chức các chuyên đề về phương pháp giảng dạy, nhất là cụm văn bản nghị luận trung đại để thấy rõ tính quan trọng của cụm văn bản này. Phòng giáo dục – đào tạo: Mở nhiều chuyên đề về phương pháp giảng dạy các cụm văn bản trong đó nhấn mạnh tới cụm văn bản nghị luận trung đại để các giáo viên trong huyện có điều kiện học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Việc định hướng đổi mới PPDH môn Ngữ văn nói chung và trong dạy văn bản nghị luận trung đại nói riêng trong nhận thức của nhiều giáo viên chưa được rõ ràng còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy những nhà biên soạn sách nên hướng dẫn cụ thể ở từng bài giảng - nhất là phần văn bản nghị luận trung đại để giúp người giáo viên thực hiện tốt công việc của mình theo hướng đổi mới PPDH - phát huy tính tích cực chủ động của các đối tượng HS đúng với mục tiêu và yêu cầu của thời đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO TT Tên sách Nhà xuất bản 1 Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam Lê Trí Viễn - NXB Khoa học xã hội - 1996 2 Giáo trình Văn học Việt Nam trung đại Lã Nhâm Thìn – NXB Giáo dục - 2015 3 Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2 Nhiều tác giả - NXB Giáo dục 2002. 4 Sách giáo viên Ngữ văn 8 tập 2 Phan Trọng Luận - NXB Giáo dục Hà Nội 1993. 5 Hướng thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn ngữ văn THCS - tập 2 Bộ giáo dục và đào tạo 6 Tiếp nhận văn học Trần Văn Dân (chủ biên) - NXB Khoa học kĩ thuật Hà Nội 1991. 7 Lí luận văn học tập 2 Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam - NXB Giáo dục, Hà Nội 1986. 8 Một số vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, 1998.
File đính kèm:
skkn_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_van_ban_nghi_luan.docx