SKKN Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ Văn 7

Năm tháng qua đi với mọi nỗ lực và tham vọng, Tần Thủy Hoàng không thể nào ngăn cản dấu ấn của thời gian trên Vạn Lý Trường Thành. Gạch đã mục, cỏ hoang đã mọc, trường thành kia chỉ còn là “vang bóng của một thời huy hoàng lộng lẫy”. Trong dòng chảy thời gian hàng trăm, hàng ngàn năm có bao sự kiện, bao chuyện đời bị phủ mờ, lãng quên. Thời gian có thể phá hủy tất cả nhưng dường như có một nơi thời gian không bao giờ bước tới. Nơi ấy là “trường thành” trong tâm khảm người Việt Nam. Nhất là những câu nói dân gian từ ngàn xưa vọng lại vẫn đậu mãi trong lòng mỗi người con đất Việt, gợi nhớ gợi thương. Điều đó thể hiện rõ hơn cả qua mảng ca dao dân ca trong chương trình Ngữ văn lớp 7.

Xã hội biến động không ngừng, lòng người luôn đổi thay, đến một phút giây nào đó trước những trắc trở, tình huống gai góc trong cuộc sống, những vấn đề cần giải đáp thì bất chợt nhứng áng ca dao ấy lại ùa về trong ta làm sáng lên bao ý tưởng đẹp, bao gợi ý hay. Vì sao ca dao lại có sức hút lạ kỳ như vậy? Phải chăng thơ ca trữ tình dân gian được sáng tác, nuôi dưỡng, lưu truyền bởi tập thể nhân dân lao động, những người chân lấm tay bùn, một đời “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Nhân vật trữ tình trong thơ ca dân gian là những con người bình dị, những người dân lao động chân chính. Qua con mắt suy nghĩ và trái tim của họ, cuộc sống được phản ánh một cách chân thật và đa dạng. Vì thế các nhà nghiên cứu đã từng đánh giá rất cao giá trị nhiều mặt của thơ ca dân gian “là tiếng tơ đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng”. Nằm trong dòng văn học dân gian, ca dao như dòng suối đậm đà hồn thiêng dân tộc, ngọt ngào hương sắc đồng quê. Xuân Diệu trong lời bạt cho sách dân ca miền Nam Trung Bộ có viết “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như có đất, như có nước, như có cát, như có biển, như có mồ hôi người, chúng ta sẽ cảm thấy dần dần tụ lại nơi khoé mắt một giọt ướt sáng ngời. Đó là một giọt tinh tuý chắt ra từ ruột già của non sông”.

Những bài ca dao là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn và bồi đắp năng khiếu thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Là sáng tác của quần chúng nhân dân, những bài ca dao có tác dụng giáo dục và giáo dưỡng to lớn đối với các thế hệ học sinh phổ thông. Ca dao đem lại cho ta những hiểu biết phong phú và đa dạng về cuộc sống của nhân dân qua các thời đại. Đó là những kinh nghiệm sản xuất, không tìm đến với ca dao - Những tác phẩm nghệ thuật của cha ông được lưu truyền qua trường kỳ lịch sử, như cuộc trường chinh vạn dặm. Ca dao có tác dụng giáo dục nhiều mặt nhưng chủ yếu và cốt lõi nhất là “bối đắp tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ”. Bởi vì ca dao cùng với văn học dân gian chính là hồn dân tộc, là bản sắc Việt Nam. Ca dao chính là nơi thể hiện những cung bậc tình cảm của người Việt Nam. Các bài ca dao của nhân dân ta tràn đầy lòng nhân ái và lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Với tiềm năng và sức mạnh đó, ca dao sẽ góp phần tích cực vào việc bồi đắp tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ, giúp họ không tự đánh mất mình mà phát huy đầy đủ năng lực, nội sinh của dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát huy được sức mạnh đó trong giảng dạy ca dao ở nhà trường THCS là mong muốn của các nhà Sư phạm và các thầy, cô giáo đang trực tiếp giảng dạy, các bậc phụ huynh học sinh.

Dạy học tốt phần ca dao sẽ không chỉ giúp học sinh hiểu về đời sống tình cảm phong phú, đẹp đẽ của ông cha mà qua đó còn giáo dục cho học sinh tình cảm, thái độ đúng đắn về gia đình, quê hương, đất nước, có cách nhìn nhận, phê phán về cái xấu, tốt trong xã hội. học tốt ca dao học sinh sẽ có một tâm hồn phong phú, có lời ăn tiếng nói trong sáng, tế nhị, sâu sắc.

doc 15 trang Trang Lê 26/07/2025 70
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ Văn 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ Văn 7

SKKN Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình Ngữ Văn 7
 làm con 
Ví dụ khác, khi dạy bài 	“Anh em nào phải người xa,
	Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
	Yêu nhau như thể tay chân
	Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”.
Hỏi: So sánh tình cảm anh em với tay chân khẳng định được điều gì?
Trả lời: Con người hoàn chỉnh không thể thiếu tay hoặc chân. Cũng như anh em ruột thịt, phải biết yêu thương, gắn bó, đùm bọc, nhường nhịn nhau. Đó là tình cảm huyết thống gia đình.
Hỏi: Qua câu ca dao giúp em có cách cư xử đối với anh chị em của mình như thế nào?
Trả lời: Học sinh tự nói lên suy nghĩ của mình như hòa thuận, đoàn kết, thương yêu, chia sẻ, 
Biết liên hệ với cuộc sống, chúng ta sẽ giúp học sinh tiếp cận được tác phẩm dễ dàng hơn, đồng thời các em sẽ được hiểu về những trạng thái tình cảm khác nhau. Trên cơ sở đó học sinh được bồi dưỡng những tình cảm cao đẹp có tính nhân văn cao như lòng yêu thương con người, biết quan tâm người khác, lòng vị tha và tinh thần đoàn kết.
Chương trình giảng dạy ca dao lớp 7 không chỉ giáo dục tình cảm gia đình mà còn chú trọng giáo dục lòng yêu quê hương đất nước. 
Ví dụ, khi dạy bài ca dao	- Ở đâu năm cửa nàng ơi
	Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
	- Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi
	Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Những câu hát về tình yêu quê hương đất nước con người thường gợi nhiều hơn tả, hay nhắc đến tên núi, tên sông, tên vùng đất với những nét về cảnh trí, lịch sử, văn hóa của từng địa danh. Đằng sau những lời đối đáp, lời mời, lời nhắn gửi là tình yêu chân chất, tinh tế và lòng tự hào đối với con người và quê hương đất nước Việt Nam. Khi dạy bài này, giáo viên nên sử dụng tranh ảnh và bản đồ để giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của các danh lam thắng cảnh đất nước. Từ đó giáo dục thái độ trân trọng giữ gìn, bảo tồn những di sản văn hóa của dân tộc đồng thời tích hợp giáo dục môi trường cho học sinh.
	Đền Sòng	Cầu Thê Húc
Ta xét thêm ví dụ: Khi dạy bài dân ca về quê hương đất nước, con người (tiết 10) 
	Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát 
	Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông.
	Thân em như chẽn lúa đòng đòng
	Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai .... 
Hai câu thơ đầu học sinh dễ dàng nhận vẻ đẹp rộng lớn bao la, các cánh đồng lúa, đó là vẻ đẹp “Cò bay mỏi cánh sao không thấy bờ” nhưng câu lục bát cuối.
	 	Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
	Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Học sinh chưa hiểu được, vì một lẽ đơn giản: Xã hội ta ngày nay có sự bình đẳng, tự do hôn nhân, không còn cảnh ép duyên như xưa nữa, hơn nữa các em mới là học sinh lớp 7, tuổi còn nhỏ làm sao hiểu được"Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai" là nói về tương lai- tương lai cuộc đời, tình yêu và hôn nhân. Vì vậy khi giảng bài này tôi đã giới thiệu cho học sinh thấy cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội cũ " Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" Nhiều cô gái đến ngày cưới mới biết mặt chồng. Chính vì thế đứng trước cảnh đồng lúa đang làm đòng, rộng mênh mông, đẹp vẻ đẹp của ấm no, cô gái chạnh lòng nghĩ về số phận, tương lai của mình.
	 	Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
 và hướng về tương lai.
	Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai .
Tương lai được diễn tả bằng cụm từ: " Nắng hồng ban mai" một tương lai đẹp, một tình yêu đẹp, hạnh phúc lứa đôi đang chờ đón. Đó là cái nhìn lạc quan của nhân dân ta nói chung và người phụ nữ trong xã hội xưa nói riêng.
Hỏi: Qua bài ca dao em hiểu gì về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến? Hãy liên hệ với phụ nữ trong xã hội ngày nay?
Trả lời: Biết cảm thương sâu sắc cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Liên hệ với người phụ nữ ngày nay 
2.2.3. Luyện tập để giáo dục tình cảm gia đình tình yêu quê hương đất nước 
Luyện tập là một khâu quan trọng trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn. 
Khi tìm hiểu tác phẩm văn học thì phần luyện tập không có nghĩa là làm bài tập mà đây là phần giúp học sinh nắm bắt tác phẩm sâu hơn cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thông qua phần luyện tập: Đọc, hát, ca dao dân ca, học sinh có thể rung cảm trước những hình ảnh đẹp, những câu ca dao hay, từ đó bày tỏ được những ý kiến đánh giá của mình về tác phẩm một cách đầy đủ, chính xác hơn.
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy đôi khi giáo viên chúng ta hay bỏ qua phần này vì cho rằng phần này không quan trọng hoặc lướt qua do thiếu thời gian. Những quan niệm đó hết sức sai lầm cần phải phê phán. Bởi thực tế giảng dạy đã cho ta thấy rất rõ không có bộ môn khoa học nào là không có phần luyện tập, thực hành. Chỉ thông qua thực hành luyện tập, học sinh mới nắm bắt bài học sâu sắc hơn. Với bộ môn Ngữ văn, phần dạy ca dao dân ca thì khâu luyện tập lại càng quan trọng. Nếu chỉ đơn thuần dạy cho các em hiểu nội dung và nghệ thuật của bài ca dao thì dễ rơi vào tình trạng nhàm chán, bởi những bài ca dao có cùng chung chủ điểm thường giống nhau về nội dung và nghệ thuật có những nét khái quát tương tự như nhau. Nhưng cũng vẫn là những bài ca dao đó, khi các em đựơc cất lên bằng những làn điệu dân ca các miền khác nhau, thì nó trở nên gần gũi, quen thuộc, dễ nhớ, dễ thuộc biết bao. Âm thanh của lời ca kết hợp với nền nhạc dân gian đã giúp các em cảm thụ tác phẩm dân gian nhanh hơn, dễ dàng hơn trong học tập. Đồng thời thông qua đó giáo viên đã rèn cho học sinh mạnh dạn hơn trong học tập, giao tiếp, giúp các em bộc lộ những khả năng khác của bản thân như năng khiếu văn nghệ, năng khiếu thuyết trình ...
Thông qua luyện tập, học sinh rèn luyện được kỹ năng cảm thụ văn bản, kỹ năng luyện viết đoạn văn, bộc lộ tình cảm một cách chân thành, mộc mạc về gia đình và tình yêu quê hương đất nước.
Ví dụ, khi học xong phần ca dao về quê hương đất nước con người học sinh luyện tập 3-5 phút theo yêu cầu viết một đoạn văn biểu cảm về quê hương mình. Các em phải biết chọn nét đẹp về cảnh vật và con người để lại trong lòng ấn tượng sâu sắc.
2.2.4. Giáo dục tình cảm học sinh qua hoạt động ngoại khóa
Ngoại khoá là một trong những khâu thực hành khá quan trọng, bởi thông qua những buổi ngoại khoá, giáo viên giúp học sinh cảm thụ văn học tốt hơn, đồng thời phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, diễn xuất văn nghệ, giúp các em mạnh dạn hơn trong quá trình học tập. Hơn thế nữa thông qua buổi ngoại khoá học sinh thêm yêu hơn bộ môn Ngữ văn - vốn là bộ môn mà các em thường ngại học bởi cho rằng nó trừu tượng dài dòng ...
Thực tế những buổi ngoại khoá văn học do tổ Văn đảm nhiệm trong nhiều năm qua đã giúp tôi nhận thấy ngoại khoá văn học thực sự là một việc làm cần thiết. Những giọt nước mắt đồng cảm với số phận của các nhân vật trong hoạt cảnh, những tiếng cười sảng khoái trước những điệu nhảy vui nhộn và cả những tiếng vỗ tay theo nhịp múa rộn ràng của các bạn trên sân trường, đã gieo vào lòng mỗi em học sinh những ấn tượng khó phai. Không phải ngẫu nhiên mà sau những buổi ngoại khoá, không khí học tập của các em học sinh trong trường lại nhộn nhịp hẳn lên. 
Để tiến hành một buổi ngoại khoá văn học đạt hiệu quả tốt. Người giáo viên phải tung ra những yêu cầu cụ thể cho học sinh. Bản thân giáo viên phải là người hướng dẫn, đạo diễn giúp các em hát, múa theo đúng làn điệu dân ca các miền. Đặc biệt khâu lựa chọn trang phục cũng hết sức quan trọng bởi nó giúp các em hiểu thêm về phong tục tập quán của mỗi miền và cả giúp các em tự tin hơn, biểu diễn trên sân khấu góp phần đáng kể vào thành công của buổi ngoại khóa.
Qua các hoạt động văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn, qua cuộc thi “Em yêu tiếng hát dân ca” là cơ hội rất tốt để giáo dục tình cảm học sinh qua điệu hò, tiếng hát lời ca, đặc biệt thêm yêu điệu hò khoan Lệ Thủy. Từ đó các em càng thêm yêu gia đình, yêu quê hương đất nước của mình.
2.2.5. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy ca dao
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Với định huống không “dạy chay, dạy suông” làm cho người học phát huy được tính tích cực trong học tập. Vì vậy việc giáo dục tình cảm cho học sinh qua giảng dạy ca dao có liên quan gì đến đồ dùng trực quan? Ông cha ta có câu “Trăm nghe không bằng mắt thấy” nghĩa là giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học nhằm minh họa cho nội dung bài giảng như tranh ảnh, bản đồ, băng hình, đĩa hát,  Thông qua đồ dùng trực quan học sinh tiếp thu được tri thức, thiết lập mối quan hệ giữa nội dung kiến thức với thực tế cuộc sống. Các em biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, tạo hứng thú, gây xúc cảm, biết yêu thương, phân biệt phải trái 
Ví dụ, khi dạy văn bản “Những câu hát về tình cảm gia đình” trong quá trình khai thác tôi đưa các bức tranh vào bài giảng.
Biết chăm sóc người thân khi đau ốm
Chị ngã em nâng
Qua hình ảnh giáo dục kỹ năng sống, biết thương yêu giúp đỡ người khác, phát huy truyền thống đạo lí của người Việt Nam “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, 
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Hoặc cho các em xem băng hình câu chuyện “Vì sao hoa cúc có nhiều cánh nhỏ” của một em bé với mong ước mẹ của mình nhanh khỏi bệnh và sống lâu.
2.2.6. Sưu tầm, sáng tác ca dao theo chủ đề tương tự
Học văn, bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những kiến thức và kỹ năng cơ bản, một trong những nội dung khá quan trọng là bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học, có những rung cảm thẩm mỹ. Góp phần khám phá “cái chất” còn ẩn dấu, tìm cái riêng, cái độc đáo, sáng tạo của học sinh. 
Để nâng cao năng lực cảm thụ ca dao cho học sinh, trong quá trình giảng dạy tôi đã lồng ghép các câu ca dao có nội dung tương tự để khắc sâu kiến thức.
Ví dụ, khi dạy bài ca dao “Công cha như núi ngất trời” giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm những bài, những câu ca dao có nội dung tương tự, như:
	Công cha như núi Thái Sơn
	Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
	Một lòng thờ mẹ kính cha
	Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con.
Hoặc	Ơn cha nặng lắm ai ơi!
	Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
Trong phần hướng dẫn về nhà, tôi luôn yêu cầu học sinh sưu tầm vào sổ tay văn học các câu ca dao có nội dung tương tự theo từng chủ đề khác nhau. Để hiểu rõ hơn về các làn điệu dân ca của quê hương, tôi đã đưa hò khoan Lệ Thủy vào phần liên hệ thực tế. Học sinh dễ cảm thụ hơn, từ đó phát hiện năng khiếu mới giới thiệu vào câu lạc bộ hò khoan Lệ Thủy của nhà trường.
Trong quá trình giảng dạy, tôi cũng đã hướng cho học sinh tập sáng tác ca dao theo chủ đề, tập làm quen cách làm thơ lục bát và ôn luyện các thể thơ được học từ lớp 6. Giúp học sinh bộc lộ tình cảm hết sức tự nhiên, tinh tế về quê hương, gia đình. Học sinh sẽ có “sản phẩm tinh thần đầu tay” nhớ mãi. Trên cơ sở đó bồi dưỡng những tình cảm cao đẹp, đậm tính nhân văn về tình yêu thương, lòng nhân ái, tự hào về quê hương đất nước và con người Việt Nam.Để kiểm nghiệm hiệu quả các giải pháp trên sau khi học phần ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước con người, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Các em làm bài khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là bảng đối chứng về kết quả học tập của các em: 
a. Học sinh yêu thích môn học
Yêu thích: 45%	Bình thường: 49,7%	Không thích: 5,3%
b. Kết quả khảo sát chất lượng phần ca dao:
TT
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
7A
38
07
18,4
16
42,1
11
28,9
04
10,5
2
7B
39
08
20,5
16
41,0
13
33,3
02
5,1
Tổng
77
15
19,5
32
41,6
24
31,2
06
7,8
Qua nhiều năm dạy môn Ngữ văn lớp 7 tôi đã có thêm những kinh nghiệm mới để hướng dẫn các em học sinh nắm được khái niệm, đặc điểm của ca dao - dân ca. Giáo viên từng bước giúp các em có kĩ năng và chủ động trong việc thưởng thức tác phẩm văn chương thuộc thể loại trữ tình dân gian. Nhiều em đã thực sự yêu thích môn Ngữ văn, có em đã sưu tầm được khá nhiều bài ca dao theo chủ đề và chép vào sổ tay văn học.
3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài
Trong cuộc sống có vô vàn điều ta phải phám phá, tìm hiểu. Cũng như trong ca dao vốn từ thật phong phú mà tế nhị, sâu sắc. Hơn ai hết, người giáo viên đứng lớp phải biết chắt lọc, tìm tòi, khám phá, phải trải qua một quá trình chọn, mài dũa “người thợ kim hoàn” ấy mới tìm được “những viên ngọc” sáng ngời. Từ đó ta càng hiểu sâu sắc của nhà thơ Maiacopxki: 
	Phải tốn phí ngàn câu quặng chữ
	Mới thu về một chữ mà thôi.
“Một chữ” ấy đem soi vào phần ca dao, theo tôi người giáo viên thành công nhất chính là bồi đắp được tình cảm nhân văn cao đẹp trong tâm hồn mỗi học sinh chúng ta. Đúng như lời dạy của Bác Hồ “Người giáo viên không chỉ dạy chữ mà còn dạy học sinh cách làm người. 
Ca dao đã đánh thức trong tâm hồn các em những tình cảm chân thành, biết ước mơ cao đẹp, sống nhân hậu, có tình người, đặc biệt qua thực tế cuộc sống các biết vâng lời ông bà, cha mẹ, thầy cô, chăm ngoan học giỏi, sống có trách nhiệm, biết quan tâm đến người khác. Ca dao đã gieo vào lòng học sinh tình yêu quê hương đất nước, từ những điều giản dị của cuộc sống xung quanh như xóm làng, cây đa, giếng nước, mái đình. Chính những bài ca dao này phần nào đã minh hoạ cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận và thực hành kiểu văn bản này để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình.
Giảng dạy ca dao - dân ca là một hoạt động hội tụ được nhiều kĩ năng và tri thức, trong đó hạt nhân là kiến thức và kĩ năng xử lí những văn bản ca dao - dân ca (một thể loại trữ tình dân gian) cụ thể với một kĩ năng tổ chức dạy học - kĩ năng sư phạm trước một đối tượng là học sinh THCS. Tùy theo những bài ca dao - dân ca với đặc trưng thể loại và đề tài của nó (bởi vì văn bản chỉ tồn tại trong thể loại), mà người giáo viên tổ chức cho học sinh đọc tác phẩm, chỉ ra phương pháp phát hiện, sưu tập, lựa chọn, phân tích, sử dụng sáng tạo như tư liệu nguồn để có thể khám phá ý nghĩa, giá trị của tác phẩm. Trên cơ sở đó mà tích hợp giá trị của nhân cách. Sự tích hợp này sẽ vừa mang bản sắc cá nhân, vừa có sắc thái cộng đồng - một điểm có thể trở nên rất mạnh, tuỳ thuộc vào tài năng, đức độ của người giáo viên và môi trường sư phạm.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất
Để giảng dạy ca dao có hiệu quả, giáo viên phải thực sự yêu nghề bài giảng mới có hồn, mới truyền tải hết cái hay cái đẹp của ca dao, của cuộc sống đến với học sinh. Khi giảng dạy văn học dân gian cần xác định đúng đặc trưng thể loại, ý nghĩa của lời ca. Người dạy cần bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, xác định được trọng tâm bài giảng. Tùy từng nội dung mà giáo viên vận dụng phương pháp một cách linh hoạt đồng thời rèn cho các em kỹ năng nghe, đọc, viết thành thạo; tích lũy vốn ca dao thường xuyên, với nội dung phong phú, đa dạng. Cần chú trọng giáo dục tư tưởng tình cảm, hình thành nhân cách của người học sinh trong thời đại mới.
Tóm lại, với nhận thức của mình trong một thời gian ngắn, tôi đã nỗ lực tìm tòi, suy nghĩ vừa đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có lẽ, những quan điểm dạy học dẫ nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu trong dạy học ca dao dân ca. Kính mong hội đồng khoa học góp ý, giúp đỡ để đề tài này trở thành cẩm nang dạy học sâu rộng đến mọi người, góp phần nâng cao chất lượng dạy học vừa thực hiện tốt mục tiêu đào tạo con người “vừa hồng vừa chuyên”.
Xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của HĐKH nhà trường	Hưng Thủy, ngày.. tháng 01 năm 2014
	 CHỦ TỊCH	 Người viết
	 	 Phan Thị Dự 

File đính kèm:

  • docskkn_gop_phan_giao_duc_tinh_cam_hoc_sinh_qua_giang_day_ca_da.doc