SKKN Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh Lớp 6 làm bài văn tả cảnh tại Trường THCS Lương Thế Vinh
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường cũng có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “bé con” giá trị? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và hiệu quả nhất.
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy: Chương trình Ngữ văn lớp 6 so với chương trình Tiểu học mà các em đã làm quen có nhiều những khái niệm trừu tượng. Riêng phân môn Tập làm văn đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn, sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả cảnh phải có những hình ảnh sống động , thuyết phục lòng người.Điều đó không thể đi từ lý thuyết sang thực hành ngay được bởi tư duy của lứa tuổi các em học sinh lớp 6 còn là tư duy cụ thể,chua tiếp nhận được những kiến thức trừu tượng. Cảm quan của các em còn thô sơ chưa có nhiều tính hình ảnh, sáng tạo nghệ thuật.
Có thể nói đối với các em học sinh ở cấp Tiểu học nhất là các em học sinh lớp 4, 5 đều rất thành thạo trong việc thực hành viết văn dạng văn bản mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu ở cấp Tiểu học. Nhưng lên lớp 6 việc sáng tạo một văn bản nghệ thuật đối với các em học sinh lớp 6 là một việc làm vô cùng khó khăn và không có hứng thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu văn học của các em học sinh (thời nay) quả là ít ỏi và hầu như là không có bởi những trò giải trí như hoạt hình, truyện tranh, Internet tràn lan đang cuốn hút các em. Điều đó đã đang dần làm nghèo nàn vốn từ nghệ thuật quý giá của văn học trong mỗi học sinh. Từ những cơ sở trên tôi thiết nghĩ : quá trình rèn kỹ năng làm bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 6 là một việc làm thiết thực nên làm và làm một cách cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất.
Với mong muốn giúp tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi mặc cảm ngại học văn, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, phát triển tình yêu với môn học, giúp các em có được tình yêu với những cảnh vật bình thường như: dòng sông, cánh đồng, mái trường... và rộng hơn là tình yêu quê hương, đất nước trong tâm hồn các em nên tôi đã xây dựng đề tài “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh”. Trong quá trình xây dựng đề tài này tôi đã nhận được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn cùng các đồng nghiệp trong nhóm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh Lớp 6 làm bài văn tả cảnh tại Trường THCS Lương Thế Vinh

o cuối đoạn. Cứ theo cách huớng dẫn như trên giáo viên cho học sinh luyện viết thành nhiều đoạn cho nhiều cảnh. Hoặc hoc sinh có thể dựng đoạn, chia đoạn theo cách sau: – Chia đoạn theo trình tự thời gian: học sinh đặt đối tượng miêu tả vào các khoảng thời gian khác nhau. Trong một năm thì theo bốn mùa xuân – hạ – thu – đông (tả cây cối, cảnh vật); trong một ngày thì có sáng – trưa –chiều – tối (tả cảnh vật, thời tiết); trong quá trình thì có bắt đầu- diễn biến- kết thúc (tả cảnh sinh hoạt), khi nhỏ – khi lớn – về già (tả con người), – Chia đoạn theo trình tự không gian: học sinh quan sát đối tượng miêu tả ở nhiều góc độ và từ nhiều hướng khác nhau: từ xa nhìn lại, từ ngoài nhìn vào, từ trong nhìn ra, từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên, nhìn bên trái, nhìn bên phải, nhìn phía trước, nhìn phía sau, nhìn toàn cảnh, nhìn chi tiết – Chia đoạn theo số lượng đối tượng được miêu tả: có thể sử dụng cách chia đoạn này cho kiểu bài tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt. Ví dụ như tả cảnh thiên nhiên thì có: bầu trời - mặt đất; cảnh trong vườn - ngoài đồng; cảnh biển cả - cảnh núi rừng Sau khi học sinh chia đoạn rồi tôi hướng dẫn cách triển khai ý trong từng đoạn. Thông thường, nếu toàn bộ thân bài triển khai trong một đoạn văn thì nhiều khi chỉ cần liệt kê cảnh cũng có thể thành một đoạn ( dù rằng nội dung miêu tả sẽ nghèo nàn, dù rằng cách tả sẽ không hay). Nhưng khi tách phần thân bài ra một số đoạn mà học sinh không có đủ kiến thức để triển khai ý trong một đoạn thì những đoạn văn ấy sẽ làm cho bài văn trở nên rời rạc, vụn vặt, thiếu liên kết. Như vậy, thực tế này đòi hỏi học sinh phải có khả năng mở rộng ý, phát triển hình ảnh miêu tả một cách phong phú và hợp lí. Thông thường có thể mở rộng ý theo một số hướng sau: - Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với đối tượng khác. Hoặc đặt đối tượng đang miêu tả trong các bước quan hệ với những đối tượng xung quanh. - Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đường nét, hình dáng, đặc điểm của đối tượng. - Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn tả là những câu văn nêu cảm xúc, suy nghĩ, nhận xét. - Mở rộng ý bằng cách kết hợp miêu tả đặc điểm với những lời giới thiệu về giá trị, về cộng dụng của đối tượng được miêu tả Ví dụ : Khi làm bài văn tả cây cối trong vườn vào một thời điểm cụ thể, ta có thể chia thân bài thành một số đoạn ứng với một số đối tượng miêu tả như sau : Đoạn một : Tả một cây cối có đặc điểm tiêu biểu và gây ấn tượng nhất trong vườn (Lớn nhất, đặt ở vị trí quan trọng nhất). Khi tả phải giới thiệu được vị trí, miêu tả, hình dáng, đặc điểm của thân, lá,rễ,hoa,quả,,tầm quan trọng của nó đối với các cây cối khác trong vườn, hoặc đối với con người. Có trường hợp nêu lên lai lịch của nó(Ai trồng?Trồng lúc nào?Người trồng và thời điểm trồng có ý nghĩa như thế nào đối với chủ nhân của khu vườn?). Đoạn hai : Tả loại cây hoa cho hương: Liệt kê một số loài hoa(hoa nhài,hoa hồng,). Đồng thời miêu tả cụ thể vị trí, hình dáng đặc điểm, cấu tạo của từng loại cây(thân,lá,hoa,hương vị) Đoạn ba : Tả loài cây cho quả: Liệt kê một số loại cây tiêu biểu(cam,bưởi,na,ổi). Sau đó tập trung miêu tả vị trí, quy trình ra hoa kết trái, cấu tạo, công dụng của từng loài cây. *Lưu ý: là trong quá trình tả, có thể đặt các đối tượng được tả trên trong mối quan hệ với nắng, với gió, với chim chóc, ong bướm,với con ngườiđể tả toàn cảnh khu vườn hiện lên sống động và đẹp hơn. 3.8. Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn trong văn cảnh. Lời văn chuyển cảnh không nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc liên kết, liên hoàn mạch văn, nó đánh giá trình độ khéo léo của cây bút miêu tả cảnh. Giáo viên chúng tôi sẽ “mách nhỏ” cho các em học sinh những kỹ năng chuyển cảnh sau đây : - Các cảnh nhỏ được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mô tip liên cảnh (cảnh kề gần nhau theo tầm quan sát) Ví dụ: “Chỉ một lát con đường đã dẫn ra tới đầu làng. Cây đa... giếng nước...sân đình...” - Chuyển cảnh nhờ những hình ảnh trung gian. Ví dụ: “Bờ đê cao to vạm vỡ. Chân đê cỏ mọc thành thảm xanh tốt. Trâu bò thung thăng gặm cỏ, vểnh đôi tai nghe tiếng sáo trở về. Âm thanh ấy lúc trầm lúc bổng, hoà nhịp với tiếng chim hoạ mi lảnh lót rắc đều xuống mặt sông. Con sông quê tôi nằm uốn khúc giữa làng rồi chạy dài bất tận...” - Hướng chuyển cảnh theo gam màu. Ví dụ: “Sáng nay ra trông thấy màu trời có vàng hơn thường khi. Màu lúa chín dưới đồng vàng suộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn lắc lư những quả xoài vàng lịm. Từng chiếc lá mít vàng ối. Buồng chuối đốm quả chín vàng. Bụi mía vàng xọng, đốt ngầu phấn trắng...” - Chuyển cảnh bằng cách nối âm thanh với không gian. Ví dụ : Nối âm thanh của sự vật bên bờ sông với không gian vắng của bến sông (lấy động làm nổi tĩnh): “Sóng vỗ nhẹ hai bên bờ lóc bóc nghe vui tai. Trên sông giờ đây có những con thuyền hối hả cập bến, chất đầy cam tươi, xoài thơm từ các miền đất lạ mang về. Tiếng người lao xao trong tiếng hạ buồm cót két bên bờ sông quê. Chiều dần buông, bến sông trở nên vắng lặng. Những con đò nằm im đợi khách.” - Chuyển cảnh bằng cách liên tưởng theo sự quan sát qua các giác quan khác nhau: Thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác và bằng cả cảm giác nữa. Ví dụ: “Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương hoa thơm ngọt lịm. Trong tiếng chim líu lo như đem hương thơm ấy bay cao, cao mãi. Tu hú kêu trong nắng chiều cho rặng vải ven sông chín đỏ, cho cái chua bay đi, miền ngọt còn lại. Hẹn một bến sống quê từng thuyền trái ngọt ra vào. Sông quê tôi....” Phương pháp này giáo viên cho học sinh tập viết kết hợp với học tập tư liệu để có nhiều cách chuyển cuốn hút người đọc. 3.9. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh luyện cách mở bài và kết bài miêu tả. - Giáo viên đưa ra một số cách mở bài cho học sinh luyện theo: trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách mở bài hay thường là gián tiếp: Có thể giới thiệu cảnh bằng lời mời gọi du khách để giới thiệu cảnh và bộc lộ cảm xúc của người viết một cách khái quát. Có thể dẫn dắt từ lời thơ,bài hát về cảnh sẽ tả để giới thiệu cảnh. Hoặc có thể bộ lộ cảm xúc hồi tưởng về cảnh để mà giới thiệu... Dù là cách mở bài nào giáo viên cũng lưu ý cho học sinh đủ ý cần nêu trong mở bài. Ví dụ 1: Mỗi lần nghe những câu hát trong bài “Đón xuân”: “Xuân đã đến rồi, reo rắc ngàn hồn hoa xuống đời. Vui trong bình minh muôn loài chim hát vang mọi nơi. Đẹp trong tiếng cười, cho kiếp người tình thương đắm đuối. Ánh xuân đem vui với đời”, lòng em lại xao xuyến, bồi hồi khi nhớ về cảnh bình minh trên quê hương vào mùa xuân tươi đẹp. Ví dụ 2: Khi màn đêm mờ ảo đang lắng dần rồi chìm vào đất, thành phố như bồng bềnh nổi giữa một biển hơi sương, đó là lúc một ngày mới đã bắt đầu trên quê hương em. Buổi sáng trên quê hương em thật đẹp. - Kết bài không đủ ý chốt của bài viết mà nên tạo độ lắng cho nốt trầm xao xuyến vang vọng trong tâm hồn người đọc điều này phụ thuộc vào trình độ diễn đạt của học sinh, nên giáo viên hướng các em trau dồi tư liệu văn học. Ví dụ 1: “Chiều thu quê hương ơi! Hồn tôi như hoá thành tiếng sáo trúc nâng trên môi chú bé mục đồng và hình như thu đang dạo lên khúc nhạc đồng quê; những tiếng lao xao rất nhẹ, rất êm. Chiều nay quả là một buổi chiều sâu lắng dìu dịu, nó sẽ in đậm mãi trong ký ức tuổi thơ tôi.” Ví dụ 2: Cảnh bình minh trên quê hương vào mùa xuân thật giản dị mà cũng thật tươi đẹp. Nó gợi nhắc những da diết yêu thương trong lòng những người con xa xứ. Nó cũng nhắc nhở thế hệ hôm nay hãy biết gắn bó và làm giàu đẹp thêm cho quê hương đất nước mình. Ví dụ 3: Một ngày mới đã bắt đầu với nhịp điệu mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Trên gương mặt mỗi người đều tràn đầy một niềm phấn chấn, lạc quan, hứng khởi. Em yêu mến và tự hào biết mấy về thành phố thân yêu của em. III. Kết quả thực hiện Trên đây là một vài ví dụ trong tiết dạy được áp dụng đề tài trên. Khi áp dụng cách làm trên vào mỗi bài giảng tôi nhận thấy có hiệu quả là đã lôi cuốn được học sinh tham gia vào bài học, hoạt động giữa thầy và trò được phối hợp nhịp nhàng. Không những học sinh phát huy được năng lực tư duy để học tập mà còn tạo cho các em sự tự tin trong phán đoán của mình, rèn luyện thói quen mạnh dạn xây dựng bài, rèn luyện tính thống nhất cho mỗi tập thể (nhóm học tập). Tôi nhận thấy tình trạng uể oải, học bắt buộc đã biến mất. Nhiều em đã sáng tạo được những tác phẩm “bé con” giá trị của mình trên các báo tường hàng năm. Sau đây tôi xin đưa ra một vài con số thực tế và kết quả cụ thể của học sinh lớp 6D, 6E sau khi cung cấp kỹ năng cơ bản về kỹ năng làm bài văn tả cảnh trên một bài viết hoàn chỉnh mà tôi đã ra đề như sau: “Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời”. Trước khi thực hiện đề tài Lớp Số lượng Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 6C 45 5 11.1 13 28.9 23 51.1 4 8.9 6D 36 1 2.8 8 22.2 20 55.6 7 19.4 Sau khi thực hiện đề tài Lớp Số lượng Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 6C 45 15 33.3 22 48.9 8 17.8 0 6D 36 5 13.9 15 41.7 16 44.4 0 Từ kết quả trên tôi nhận thấy chất lượng giáo dục tăng lên rõ rệt.Cụ thể : * Lớp 6 C: + Giỏi tăng 22.2%. + Khá tăng 20%. + Trung bình giảm 33.3%. + Yếu không có. * Lớp 6D : + Giỏi tăng 11.1%. + Khá tăng 19.5%. + Trung bình giảm 11.2%. +Yếu không có C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Đề xuất và khuyến nghị. Từ những kinh nghiệm nhỏ bé trên của tôi, tôi xin mạnh dạn đưa ra một vài đề xuất sau: - Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này về phía giáo viên phải thực sự kiên trì, mẫu mực trong cách dùng từ, trong việc kiểm tra, đánh giá sửa các phần viết luyện kỹ năng của các em. Mặt khác giáo viên cũng phải sưu tầm, chọn lọc tư liệu quý giá để cung cấp cho các em, đồng thời tìm cách hướng các em cách vận dụng sáng tạo những tư liệu để biến thành cách diễn đạt riêng của bản thân mỗi học sinh. - Về phía học sinh phải nhiệt tình, tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ thuật . Phải quan sát tí mỉ có những nhận xét tinh tế những cảnh vật thiên nhiên thường nhật, phải tưởng tượng phong phú và cần phải nhập tâm vào cảnh vật để có được những cảm xúc chân thực với cảnh vật thiên nhiên khi miêu tả. - Để bồi dưỡng tình yêu văn cho học sinh nói chung,làm giàu vốn ngôn ngữ miêu tả cho các em học sinh khối 6 nói riêng chúng tôi cũng mong muốn giáo viên ngữ văn trong cùng khối sưu tầm tư liệu miêu tả thành những cuốn tư liệu quý để lưu giữ trong tủ sách nhà trường . Nhà trường cũng cung cấp thêm những tài liệu về văn miêu tả cho học sinh THCS để làm giàu cho tủ sách. Học sinh cũng tự giác sưu tầm những đoạn văn, bài văn miêu tả có giá trị, phô tô 2 bản, giữ 1 bản để đọc, 1 bản nộp tủ sách nhà trường. - Sau đó nhà trường thường xuyên tổ chức phong trào “Thi đua đọc tư liệu từ tủ sách nhà trường” . Hoạt động này sẽ cho điểm xếp loại cho cá nhân và lớp. - Tôi cũng rất mong muốn Phòng Giáo dục - Đào tạo tổ chức thường xuyên các buổi chuyên đề để giáo viên được trao đổi học tập. 2. Kết luận. Là người trực tiếp giảng dạy trong trường THCS , người giáo viên phải nắm rõ lý luận dạy học và quan điểm mà Đảng và Nhà nước đã nêu rõ: Giáo viên phải có tư tưởng tình cảm đúng đắn, lành mạnh, trong sáng có tâm huyết với nghề, có thế giới quan và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần đào tạo thế hệ trẻ theo cương lĩnh của Đảng đề ra. Để làm tốt được điều đó, người giáo viên phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao trình độ chuyên môn, cải tiến phương pháp giảng dạy, cập nhật các kiến thức xã hội có liên quan đến chương trình dạy. Qua giảng dạy, tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm cho nghề nghiệp của mình trong đó việc giảng dạy và truyền thụ kiến thức môn Ngữ Văn là hết sức quan trọng. Đó là môn học trực tiếp bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan cho học sinh. Không chỉ học kiến thức học sinh còn dần dần hoàn thiện nhân cách, hướng tới cái chân, thiện, mỹ,sống trung thực biết yêu thương, biết hy sinh vì người khác. Hãy gieo vào tâm hồn trẻ thơ những gì tốt đẹp, sáng trong để giáo dục các em trở thành những người có tri thức, có nhân cách đẹp. Muốn vậy, người giáo viên cần phải học hỏi nhiều hơn để làm chủ kiến thức, lúc cần thiết phải giải đáp cho học sinh ở bất cứ lúc nào. Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài, những bàn tay tự viết ra được những lời văn sinh động, gợi cảm, những nụ cười thiện cảm với môn Ngữ văn từ phía học sinh. Để đạt được những điều vô cùng quý giá đó mỗi giáo viên chúng tôi đâu chỉ có say mê nhiệt tình với công tác giảng dạy mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất. Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ bé của riêng tôi xin được chia sẻ cùng các đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn tả cảnh.Do trình độ và kinh nghiệm còn có hạn vì vậy tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót ,hạn chế .Tôi rất trân trọng những ý kiến đóng góp của các đồng chí để tôi có thể củng cố ,bồi dưỡng ,trau dồi kiến thức chuyên môn của mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Thị trấn Phùng, ngày 15 tháng 3 năm 2020 Người viết Nguyễn Thị Thuỷ Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ XẾP LOẠI CỦA TỔ CHUYÊN MÔN .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... .................................................................................................................... ....................................................................................................................
File đính kèm:
skkn_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_lop_6_lam_bai_van_ta_can.doc