SKKN Một cách tiếp cận để học sinh thêm hiểu, thêm yêu văn bản “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” (Hồi 14 – Ngô Gia Văn Phái)

Lâu nay, vấn đề dạy và học môn Ngữ văn luôn thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội, và câu hỏi được đặt ra nhiều nhất là vì sao phần đông học sinh hiện nay ít thích học môn Ngữ văn? Dạy Văn đã khó. Mảng văn học trung đại (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX) lại càng nan giải hơn. Ai đã từng dạy văn đều ý thức rõ điều này. Đa số giáo viên dạy văn đều cho đó là tác phẩm khó tiếp cận và ít hứng thú với chúng. Nguyên nhân là vì khoảng cách khá xa về thời gian ra đời của các tác phẩm văn học cổ điển, kéo theo sự xa lạ từ văn phong đến các điển tích, điển cố, các quan điểm thẩm mĩ… khiến cho cả giáo viên và học sinh khó tiếp cận và cảm thụ nên tiết học thường khó thành công.

Là giáo dạy môn Ngữ văn 9 đã nhiều năm, có một văn bản trung đại khiến tôi rất trăn trở mỗi khi cùng học sinh tiếp cận nó. Đó là văn bản Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14) của Ngô Gia Văn Phái. Có thể coi đây là một trong những bông hoa tiêu biểu, rực rỡ trong vườn văn học Trung đại nước nhà, góp phần làm cho nền văn học Việt Nam đậm nét, phong phú. Thế nhưng để thưởng thức hương thơm và vẻ đẹp đó thật không dễ chút nào bởi nó đòi hỏi người đọc phải có đầy đủ vốn hiểu biết lịch sử thời đại, vốn chữ nghĩa và khả năng cảm thụ sâu sắc. Tác phẩm được đưa vào nhà trường một mặt giúp các em hiểu được tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà qua các thời kì nhưng mong muốn hơn hết là giúp các em thấy được giá trị, cảm nhận và yêu thích hòn ngọc ngàn đời vẫn sáng này. Tất cả những lý do trên đã khiến tôi, dù đã làm công tác quản lý, vẫn tham gia dạy Tự chọn Ngữ văn 9 và chọn đề tài: “Một cách tiếp cận để học sinh thêm hiểu, thêm yêu văn bản Hoàng Lê nhất thống chí” (Hồi 14 – Ngô Gia Văn Phái) vào Chuyên đề Văn học trung đại.

docx 28 trang Trang Lê 29/06/2025 230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một cách tiếp cận để học sinh thêm hiểu, thêm yêu văn bản “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” (Hồi 14 – Ngô Gia Văn Phái)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một cách tiếp cận để học sinh thêm hiểu, thêm yêu văn bản “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” (Hồi 14 – Ngô Gia Văn Phái)

SKKN Một cách tiếp cận để học sinh thêm hiểu, thêm yêu văn bản “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” (Hồi 14 – Ngô Gia Văn Phái)
thảo luận, trả lời:
? Tại sao tác giả vốn trung thành với nhà Lê lại có thể viết thực và hay như thế về Nguyễn Huệ ?
Sau khi học sinh thảo luận nhóm, trình bày, tôi lưu ý các em: Các tác giả Ngô Gia Văn Phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nặng của nhà Lê, nhưng quan điểm phản ánh hiện thực của các tác giả là tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc nên cách tả, kể chân thực, hào hùng, tự hào. Đó cũng là yếu tố tạo nên sự thành công của tác phẩm.
Khi khai thác hình ảnh Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và vua tôi nhà Lê, tôi chú ý giúp học sinh so sánh hai hình ảnh tưởng như giống nhau là đều chuốc lấy thất bại nhưng sắc thái tình cảm của tác giả lại hoàn toàn khác nhau:
 Phần kiến thức quan trọng này giúp các em hình dung ngòi bút đa dạng, nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau khi miêu tả các đối tượng khác nhau. Với Nguyễn Huệ là ngòi bút thể hiện không khí trang trọng, hùng tráng của anh hùng ca; với sự thảm bại của bè lũ xâm lược, là sự hả hê, sung sướng; với sự tháo chạy của vua tôi nhà Lê lại có sự ngậm ngùi
Củng cố:
Phần củng cố, giáo tôi đã sử dụng nhiều hình thức khác nhau, tùy vào mức độ của bài tập mà yêu cầu học sinh làm bài dưới dạng cá nhân hoặc nhóm như: 
 * Bài tập: Khoanh tròn vào chữ cái đầu câu trả lời đúng.
1. Tên tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" có nghĩa là gì?
A. Vua Lê nhất định thống nhất đất nước.	
B. Ý chí thống nhất đất nước của vua Lê.
C. Ghi chép việc vua Lê thống nhất đất nước.	
D. Ý chí trước sau như một của vua Lê.
2. Nhận xét nào sau đây không đúng với nội dung hồi thứ 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí” ?
A. Ca ngợi vẻ đẹp tuyệt vời của hình tượng người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ.
B. Nói lên những thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh.
C. Mô tả số phận bi đát, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống.
D. Kể về lịch sử đất nước vào giai đoạn thế kỉ 17
 3. Lập bảng hệ thống những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của văn bản? (Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật, so sánh, chỉ ra sự khác biệt giữa hình ảnh vua Quang Trung với bè lũ cướp nước - Tôn Sĩ Nghị, bán nước - Lê Chiêu Thống?)
Đây là bài tập mà tôi yêu cầu học sinh thảo luận theo hình thức Khăn phủ bàn: Yêu cầu chia nhóm, cá nhân trong nhóm ghi ra phiếu cá nhân phần làm của mình, nhóm trưởng tổng hợp vào phiếu chung và thông báo kết quả trước lớp. sau đó, các nhóm khác nhận xét, bổ sung và giáo viên là người chốt sau cùng.
Dưới đây là một bài tập mà học sinh đã thực hiện thành công:
Và bảng chốt kiến thức:
4.Thi kể chuyện giai thoại về vua Quang Trung:
Với bài tập 4, tôi đã yêu cầu các nhóm kể lại những mẩu chuyện, những giai thoại về vua Quang Trung, nhận xét về cách hành xử của vị vua áo vải cờ đào qua các câu chuyện đó.
Ngoài ra, tôi cũng chuẩn bị nhằm cung cấp thêm một số mẩu chuyện, tư liệu hình ảnh minh họa khác liên quan đến Quang Trung Nguyễn Huệ và thái độ trân trọng và biết ơn của nhân dân ta đối với ông để các em học sinh hiểu rõ hơn về nhân vật (Tư liệu có ở phần phụ lục). 
KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Về phía giáo viên:
Nắm chắc và được hệ thống lại một lần nữa cách thức tiếp cận và xử lý tác phẩm văn học trung đại nói chung, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí nói riêng. Từ đó, có thêm kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. Cụ thể:
Một là khi giảng dạy các tác phẩm văn chương trung đại, giáo viên phải dựng lại được không khí văn hóa, lịch sử của thời đại, phải tạo được sự đồng cảm về văn hóa, văn học
Hai là giảng dạy văn học trung đại phải dựa trên thi pháp văn chương trung đại.
Ba là giảng dạy văn học trung đại phải bám sát đặc trưng thể loại.
Bốn là giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại phải đặt trong mối liên hệ với cuộc sống thực tại hôm nay.
Ngoài ra, giáo viên cần chú ý khai thác tính tích hợp kiến thức (giữa các tác phẩm trong phần văn, giữa các phần trong môn học và tích hợp với các môn học khác có kiến thức liên quan). Có như thế kiến thức bài học mới được xử lý và khai thác hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, để phát huy hiệu quả trong khi tiếp cận và giảng dạy tác phẩm, giáo viên cần có cách thức tổ chức, triển khai giờ học một cách sinh động, sáng tạo, hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh.
Ý thức sâu sắc hơn trong việc giữ gìn, tiếp nối, truyền tải giá trị của các tác phẩm trung đại tới các thế hệ học sinh.
Ý thức rõ ràng về vai trò của phương pháp dạy học mới: lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người gợi mở để các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Có ý thức học hỏi, tìm tòi tài liệu phục vụ bài giảng, thêm gắn bó, yêu quý hơn với công việc của mình.
Về phía học sinh:
Được rèn kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn học trung đại – mảng văn học mà xưa nay các em vẫn ngại tiếp cận vì khô và khó, đặc biệt là văn bản Hoàng Lê nhất thống chí hồi 14 với thể loại tiểu thuyết chương hồi.
Thêm hiểu, thêm yêu các nhân vật và sự kiện lịch sử được nhắc tới trong tác phẩm. Từ đó, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được khơi dậy trong các em.
Được chủ động tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm qua sự hướng dẫn và phân công của giáo viên.
Đã có sự thay đổi trong nhận thức về cách học môn Ngữ văn: nó không phải chỉ là môn học dài và thường chỉ nghe giảng và chép bài. 
Sự giao thoa giữa thầy và trò khi cùng nhau tìm hiểu văn bản giúp các em cởi mở, gần gũi hơn trong các mối quan hệ (với giáo viên, với bạn học).
Được củng cố thêm kỹ năng sử dụng kiến thức liên môn trong khi tiếp cận, khám phá một tác phẩm văn học.
Thêm hiểu, thêm yêu, tự hào về những tác phẩm văn học có giá trị mà thế hệ đi trước để lại. Từ đó, có ý thức giữ gìn, tiếp nối những truyền thống đó.
Kết quả đối chiếu so sánh cụ thể như sau:
Trước khi thực hiện đề tài:
Lớp
9A
9B
Thích học
13
15
Không thích học
24
22
Sau khi thực hiện đề tài:
Lớp
9A
9C
Thích học
16
27
Không thích học
21
9
Kết quả học tập trước khi thực hiện đề tài:
Học sinh các lớp
Thông tin
Sĩ số
Học lực
G
Kh
Tb
Y
Kém
9A
37
04
12
17
04
0
9B
37
05
13
15
04
0
Sau khi thực hiện đề tài:
Học sinh các lớp
Thông tin
Sĩ số
Học lực
G
Kh
Tb
Y
K
9A
37
04
13
16
04
0
9B
36
07
18
10
01
0
 Như vậy, có thể nhận thấy mức độ chuyển biến ở lớp 9A, lớp theo cách thức tiếp cận truyền thống, dù đã rất cố gắng nhưng thái độ học tập và kết quả môn học có mức độ chuyển biến chậm, khó nhận thấy. Trong khi đó, số lượng học sinh yêu thích môn Ngữ Văn– lớp thực nghiệm theo cách thức tiếp cận mới tăng lên ở lớp 9B. chính vì vậy, góp phần nâng cao kết quả học tập năm học, chất lượng dạy học. Đó là tín hiệu rất đáng mừng.
ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
Xin đưa ra một số kiến nghị, giải pháp sau:
Với Ban giám hiệu nhà trường:
Thường xuyên cập nhật kiến thức mới để có thể trao đổi, giúp đỡ giáo viên trong hoạt động dạy học.
Tạo điều kiện để giáo viên học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn.
Có kế hoạch bổ sung đồ dùng thiết bị dạy học, các tài liệu tham khảo giúp giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
 Với mỗi giáo viên Ngữ văn:
Phải đặt cái tâm của nghề lên làm đầu.
Không ngừng tìm hiểu để hiểu, thân thuộc, gắn bó và không ngừng phát hiện ra các vẻ đẹp khác nhau của mỗi tác phẩm.
Không ngừng học học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và các kỹ năng mềm trong quá trình tiếp cận với học sinh.
Vấn đề mà đề tài đưa ra không hoàn toàn mới lạ. Tuy nhiên, đó là những kinh nghiệm mà bản thân tôi thu nhận được từ thực tiễn dạy học và cơ sở lý luận khoa học soi đường. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học như hiện nay, đòi hỏi sự nỗ lực, nghiên cứu, tìm hiểu không ngừng của mỗi người thầy.
Do trình độ và kinh nghiệm còn hạn chế nên vấn đề đưa ra không tránh khỏi những non nớt và thiếu sót. Rất mong sự góp ý từ Quý thầy cô và đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn và tôi có thêm kinh nghiệm trong sự nghiệp trồng người.
 Ba Vì ngày 18/5/2021
 Người thực hiện:
PHỤ LỤC
 Phụ lục 1: Tài liệu tham khảo
Sáng kiến kinh nghiệm VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI – SGK NGỮ VĂN 9 
Tác giả: Vũ Thị Hè – Trường THCS Thắng Thủy – Vĩnh Bảo – Hải phòng.
Văn bản : HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ – Ngô Gia Văn Phái. Nhà xuất bản Văn học.
GIAI THOẠI NGƯỜI ANH HÙNG NGUYỄN HUỆ 
Tác giả: Thanh Tùng, trong “Thư viện sách hay”.
Giáo trình VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM.
Tác giả: Nguyễn Đăng Na. Nhà xuất bản Đại học sư phạm
 Giáo trình LÝ LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM.
Tác giả: Trần Đình Sử. Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
Bài viết: TIẾP CẬN TÁC PHẨM TRONG CHƯƠNG TRÌNH PHỔ THÔNG CÓ LIÊN HỆ VỚI VĂN HÓA CỔ TRUNG ĐẠI
Tác giả: Trần Nho Thìn in trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An
Luận văn: GIẢNG DẠY VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Ở BẬC THCS THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỌC HIỂU.
Tác giả: Phạm Thị Hiền – Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
 Phụ lục 2: Một số hình ảnh dùng minh họa trong bài.
(Minh họa cho các trận đánh và hào khí quân Tây Sơn)
(Phần nào tái hiện bức chân dung vua Quang Trung và thái độ của nhân dân đối với ông)
Phụ lục 3: Một số giai thoại đưa vào trong bài dạy
Phần Tìm hiểu văn bản:
Câu chuyện 1: Trong cuốn thơ văn Phan Huy Ích có kể lại câu chuyện sau: Khi người em ruột Phan Huy Ích chống lại Tây Sơn, bị mang trọng tội, Phan Huy Ích rất sợ hãi, vội viết biểu về triều tạ tội. Nhưng rồi ông rất vui mừng nhận được chiếu của vua Quang Trung: "Tính người ta thiện ác khác nhau, cha còn không vừa được lòng con, huống chi anh đối với em. Việc đã không dính líu đến thì còn có hiềm nghi gì". Phan Huy Ích lúc đó mới yên tâm phục vụ triều Tây Sơn và trở thành một cộng sự đắc lực của Nguyễn Huệ.
Câu chuyện 2: Chúng ta đều biết việc Nguyễn Huệ ba lần viết thư mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ra giúp nước. Lời thư ân cần, thiết tha, trân trọng hiếm có xưa nay: "Mong Phu Tử nghĩ đến chúng dân thiên hạ, vụt dậy đi ra, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có người mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra người giỏi" (thư viết lần hai) và "Mong Phu Tử xét tấm lòng thành, vụt dậy mà đổi bụng, lấy lòng vì Nghiêu Thuấn quân dân ra mà dạy bảo, khiến cho quả đức được thỏa lòng mong ước tìm thầy và đời này được nhờ khuôn phép của tiên giáo. Thế thì may lắm lắm” (thư viết lần 3) - Tổng tập văn học Việt Nam.
 Phần Củng cố:
Giai thoại 1:
Tại làng quê Phú Lạc (thuộc xã Bình An – Tây Sơn – Phú Thọ ngày nay), có một gia đình họ Nguyễn có ba người con: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Nguyễn Huệ sinh năm 1752, có vóc dáng cao lớn, luôn sẵn lòng giúp gia đình, các anh làm nhiều việc. Nguyễn Huệ đã sớm tỏ ra là một người thông minh, mưu trí, nhân từ. 
Tuổi thơ, Huệ giúp gia đình thả bò ở mạn Nam sông Côn; thường hay bầy trò “đánh giặc giả” với đám chăn bò trong các làng lân cận. Phe của Huệ luôn giành chiến thắng, nên lũ trẻ rất thích theo phe Huệ !
Theo truyền thuyết dân làng kể lại, một lần nọ, có người lạ mặt tìm đến đám chăn bò, có ý thuê một đứa giúp ông một việc: lặn xuống đáy hồ nước cạnh chân núi, bỏ một chiếc hộp vào miệng một khe đá là miệng hang của một con rồng. Ông sẽ thưởng cho mười lạng bạc! Nguyễn Huệ sớm biết mưu đồ, thâm ý của ông, nên tuy không đứa nào dám nhận lời, Huệ cương quyết lãnh nhận. Nguyễn Huệ lặn sâu xuống đáy vực, theo lời dặn dò, Huệ tìm thấy miệng hang của con rồng. Ông không bỏ chiếc hộp vào đó, mà lại nhét vào một khe đá khác. Nguyễn Huệ trồi lên mặt nước, lên bờ - người đàn ông vui mừng trao cho Huệ mười lạng bạc. Người khách lạ ấy là một thấy địa lý nổi tiếng, tìm long huyệt để chôn hài cốt của cha mình, sau này ông và con cháu sẽ có mạng Đế vương, quan to, hay giàu có. Ông đã không ngờ được một cậu bé chăn bò đã hiểu được thâm ý, đánh lừa ông dễ như chơi.
Người anh cả của Nguyễn Huệ ngoài việc đồng áng, trồng trọt, còn có nghề đi buôn. Ông chèo thuyền lên mạn ngược, tìm mua trầu lá của các làng người dân tộc Ba-na, Ê-đê; rồi xuống thuyền về An Thái (xã Nhơn Phúc) để bán. Nguyễn Huệ cũng được anh nhờ theo hộ tống ghe thuyền, vì dọc đường có thể bị cướp.
Ba anh em theo học chữ thầy Nguyễn Văn Hiến – thường gọi là thầy giáo Hiến - ở An Thái. Thầy giáo Hiến là người rất giỏi văn chương, lại có đạo đức; được dân chúng ca ngợi. Chính ông đã đặt và tâm hồn Nguyễn Huệ lòng yêu quý văn thơ, đặt nền móng cho những ước mơ xây dựng nền văn học chữ Nôm sau này của Nguyễn Huệ.
Người thầy dạy võ đầu tiên cho anh em Nguyễn Nhạc, là ông Đinh Văn Nhưng – tục gọi là ông Chãng. Cả ba anh em phải khăn gói, mang gạo thóc xuống tận Phương Danh (xã Đập Đá – huyện An Nhơn) đề tầm sư học võ. Ông Chãng có tướng người to con, thô kệch, rất giỏi võ nghệ, tính tình cương trực, nóng nảy. Ông cũng là một trong số rất ít gia đình có công khai hoang, lập ấp, mở rộng bờ cõi cho An Nhơn. 
Trong ba người học trò này, ông thường khen Nguyễn Huệ mưu trí, không những thông thuộc các thế võ được dạy, mà còn có nhiều sáng kiến, biến hóa riêng. Ông cũng thường để Nguyễn Huệ ra thử đấu với mình để phân tài cao thấp. Lần nào Huệ cũng được ông nể phục.
Giai thoại 2: 
Ngay việc phê đơn (ngự phê) Nguyễn Huệ cũng có cách xử sự rất độc đáo. Giai thoại Thăng Long kể: Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc đánh họ Trịnh. Khi quân đánh vào Văn Miếu, có làm đổ một số bia tiến sĩ. Đến năm 1789 sau đại thắng quân Thanh, khi Nguyễn Huệ đã lên làm vua, nhân dân quanh Văn Miếu có làm đơn lên ông, đề đạt nguyện vọng khôi phục lại các di tích bị đổ nát. Trong đơn mà các nhà nho làm hộ nhân dân, dám gọi nhà vua bằng Ngài. Quang Trung đã phê:
 "Ta không trách các nông phu/Ta chỉ gớm các thầy nho/Cả gan to mật, dám kêu vua bằng ngài"
 (thời ấy thần dân phải gọi vua bằng bệ hạ. Gọi vua bằng ngài là khi quân, trong trường hợp khác có thể quy tội rất nặng). 
Sau đó ông viết tiếp: 
“Mai sau dọn lại nước nhà/Bia nhà dựng lại trên tòa muôn gian”
Qua sự kiện này, giữa nhà vua và dân chúng hầu như không còn khoảng cách. Đó là nhờ sự giản dị, phục thiện, tính cách bình dân ở ông mà rất hiếm vị vua chúa có được.
Phụ lục 4: Một số hình ảnh trong giờ học thực nghiệm đề tài, trong đó có sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ. 
CAM KẾT:
Tôi xin cam kết Đề tài này là sản phẩm của cá nhân tôi. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Phòng, Sở Giáo dục – Đào tạo về tính trung thực của bản Cam kết này. 
 Ba Vì, ngày 20 tháng 5 năm 2021
 Người cam kết 
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ:
.......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN:
Ngày ..tháng .. năm 2015
 Chủ tịch hội đồng:
..

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_cach_tiep_can_de_hoc_sinh_them_hieu_them_yeu_van_ba.docx