SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách Giáo Khoa

Thực tiễn cho thấy: Việc hướng dẫn học sinh (HS) tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình (chương trình năm 2006 quy định cụ thể về văn bản được giảng dạy, trong một bộ sách giáo khoa duy nhất và thống nhất trên toàn quốc) hầu như không được quan tâm. Đến năm học 2023-2024, khi chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã được triển khai đến lớp 11 ở cấp THPT, thì việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài các bộ sách giáo khoa (SGK) hiện hành vẫn là một mục tiêu xa vời với đa số GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như sau: - Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2006 chú trọng bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học; chỉ có một bộ SGK duy nhất trên phạm vi cả nước.

Do đó đa số GV xem SGK là “pháp lệnh”, nội dung SGK được coi là nguồn kiến thức duy nhất để dạy học và kiểm tra, đánh giá. Áp lực thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục tạo nên thói quen tập trung vào mục tiêu tìm hiểu các văn bản trong SGK với cả người dạy và người học. - Thực tiễn thi cử môn Ngữ văn trong hầu hết các kì thi như: Tuyển sinh vào lớp 10, Tốt nghiệp THPT; học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia… đều lấy ngữ liệu ra đề phần nghị luận văn học là văn bản/ tác phẩm trong SGK. Với một số kì thi học sinh giỏi (HSG), nếu có yêu cầu trải nghiệm thì cơ bản vẫn cho HS lựa chọn và phân tích một hoặc một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn của lớp học, cấp học phù hợp. Điều này tạo nên tâm lý thực dụng với cả đội ngũ làm công tác quản lý và giảng dạy ở môn Ngữ văn trong các nhà trường phổ thông. Việc tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK vì thế không trở thành mục tiêu dạy và học của GV, HS.

pdf 84 trang Trang Lê 02/09/2025 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách Giáo Khoa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách Giáo Khoa

SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách Giáo Khoa
và cặp môi thâm sì”. Dù chiến tranh đã qua đi 
nhưng dư âm của nó vẫn ở lại, vẫn để lại những vết tích như một lời nhắc nhở về cuộc kháng 
chiến hào hùng, vĩ đại nhưng cũng đầy đau thương và mất mát của dân tộc. 
- Phẩm chất: 
+ Tinh thần trách nhiệm: 
・Cứu người họa sĩ: Người chiến sĩ không oán trách thái độ thờ ơ lạnh lùng của người họa sĩ 
khi từ chối lời thỉnh cầu tha thiết của anh, mà ngược lại còn cứu giúp người họa sĩ thoát khỏi 
cửa tử: Người chiến sĩ "thồ" tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã 
quay lộn lại. Nếu anh không đến kịp có lẽ là tôi bị dòng suối cuốn đi. Anh cởi chiếc ba lô sau 
lưng cho tôi,khoác vào trước ngực mình. Anh đỡ lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi 
đi. Có lẽ rằng tinh thần trách nhiệm đã xóa tan đi màn khói của sự ích kỷ nhỏ nhen trong tâm 
hồn người chiến sĩ để hướng tới một đích đến cao cả: bảo vệ cho tổ quốc, toàn thể nhân dân. 
Bởi lẽ trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, một cá nhân cũng có thể làm nên điều 
phi thường và cứu người cũng như cứu chính bản thân và dân tộc mình khỏi ngòi súng của kẻ 
thù. 
・Ngăn người họa sĩ đốt lửa: Khi người họa sĩ định châm lửa để có thể nhìn rõ đường nét trên 
khuôn mặt của người chiến sĩ để có thể ký họa chính xác hơn thì anh ngăn lại. Trong đêm tối 
của chiến tranh, một ánh lửa nhỏ cũng có thể trở thành tín hiệu giúp quân thù phát hiện ra căn 
cứ của dân tộc. Mặc dù rất mong muốn một bức tranh chân dung chân thực nhất để người mẹ 
ở quê của mình thôi đau buồn vì hay tin anh đã hy sinh nhưng người lính vẫn đặt nhiệm vụ và 
sự an nguy của dân tộc lên trên ước muốn cá nhân. Anh đã hy sinh ước nguyện bấy lâu của 
người mẹ, hy sinh niềm hy vọng để minh chứng rằng mình vẫn còn sống để giúp đoàn hành 
quân thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù tàn bạo. 
+ Bao dung, độ lượng: Tha thứ cho sự thất hứa của người họa sĩ: Dù người họa sĩ đã không 
gửi bức ký họa chân dung cho người mẹ đang ở nơi quê nhà của anh, đã thất hứa và khiến cho 
người mẹ tội nghiệp ấy khóc đến khi đôi mắt trở nên mù lòa. Nhưng người lính vẫn lựa chọn 
tha thứ cho họa sĩ, tha thứ cho kẻ đã bội bạc niềm tin của mình, làm tổn hại đến người mà 
mình yêu thương nhất. Tấm lòng và trái tim của một người lính bình thường, một con người 
trải qua những năm tháng khổ cực nơi chiến trường nhưng sao lại giàu lòng vị tha đến vậy? 
Kẻ tự coi mình là người bề trên, sống vì nghệ thuật nhưng lại bị mờ mắt bởi hư danh, còn 
người bị coi là thô ráp lại có trái tim ấm áp với sự bao dung dành cho tất thảy, cho kẻ đã làm 
tổn thương chính mình. Dường như người lính ấy đã trao gửi niềm tin nơi người họa sĩ, dùng 
đôi bàn tay của mình để trục vớt phần thiên lương trong sáng đang bị hư danh che lấp trong 
tâm hồn người họa sĩ, đưa người anh về với bản chất của một người nghệ sĩ - yêu thương con 
người, sáng tác vì con người. 
+ Coi trọng chữ “tình”: Trở về sau cuộc kháng chiến, người lính cảm mến tấm lòng của người 
hàng xóm đã giúp mình chăm sóc người mẹ nơi quê nhà nên đã lấy cô làm vợ. Dường như đó 
là cách để anh trả ơn cũng như bù đắp lại khoảng thời gian thanh xuân của cô gái khi tận tình 
chăm sóc một người xa lạ. 
 83 
b. Người họa sĩ 
• Hoàn cảnh: Là một người nghệ sĩ tài năng trong kháng chiến với những tác phẩm được lựa 
chọn trưng bày tại buổi triển lãm ở nước ngoài. 
• Phẩm chất: 
- Am hiểu và trân trọng nghệ thuật: 
+ Khi được người chiến sĩ nhờ vẽ một bức tranh chân dung thì họa sĩ từ chối vì: Tôi bỗng thấy 
tự ái. Tôi là một họa sĩ, chứ đâu phải một anh thợ vẽ truyền thần. Với ông, việc sáng tác nghệ 
thuật không phải chỉ là những nét ký họa đường nét đơn thuần, không phải là sự sao chép y 
nguyên những gì sẵn có mà cần đặt cảm hứng trên đầu cọ để có thể họa nên những tác phẩm 
nghệ thuật chân chính. 
+ Họa sĩ đã sử dụng sơn dầu - chất liệu không phải sở trường của ông để vẽ lên bức tranh. Bởi 
lẽ rằng: Thuốc nước, cái nghệ thuật chấm phá của thần bút cũng như không khí lấp lánh hư 
ảo của sơn mài không thỏa mãn tôi, - tâm trạng một họa sĩ muốn dùng ngọn bút vẽ để tự tìm 
hiểu mình, tự phán xét mình. Sử dụng sơn màu đồng nghĩa với việc muốn lưu giữ vẻ đẹp 
nguyên trạng của bức tranh trong thời gian dài, dường như người họa sĩ muốn nhắc nhở mình 
ở hiện tại và sau này về bài học từ người lính, về sự độ lượng mà anh đã dành cho kẻ bội bạc 
chính lòng tin của anh. 
- Góc khuất trong tâm hồn người nghệ sĩ: 
+ Mờ mắt bởi hư danh: Chỉ vì bức tranh truyền thần trở nên nổi tiếng mà người nghệ sĩ đã lảng 
tránh đi mục đích thực sự của nó. Ông coi nó như một đỉnh cao trong sự nghiệp, là tác phẩm 
đưa ông đến đỉnh cao của danh vọng. Nhưng chính ông cũng không ngờ, những hư danh vật 
chất ấy đều được trả giá bằng nước mắt và nỗi đau của người mẹ nơi quê nhà của người lính. 
Tại sao ông lại làm như vậy? Lễ nào họa sĩ đã quên ai là người đã cứu mình tại con suối trong 
rừng ngày hôm đó, đã quan tâm và chăm sóc mình trong đêm khuya? Phải chăng vì mong 
muốn được khẳng định, được công nhận bởi giới chuyên môn nên bức tranh của tình thương 
không được trao gửi đến “địa chỉ đỏ” ban đầu. Người họa sĩ đã biện minh ra những lý do để 
lờ đi mục đích thực sự của bức tranh: Nhưng chỉ sau một tuần lễ, tôi đã thiết lập được với cái 
xã hội hậu phương chung quanh những mối quan hệ mới, cái không khí chiến trường tự nhiên 
nhạt nhòa đi, cái mối nhiệt tâm của lúc còn ở trong đó vơi bớt đi. Ông không muốn mất đi tác 
phẩm làm nên tên tuổi của ông, tác phẩm giúp ông nhận được lời khen từ những người bạn 
trong nghề. Bức tranh ấy đã mất đi giá trị ban đầu của nó, mất đi sứ mệnh của chính nó vì 
chính sự ham danh lợi của chính người tạo ra nó. 
+ Trốn tránh hậu quả: Khi nhận ra người thợ cắt tóc là người lính năm xưa, họa sĩ đã tìm đến 
quán cắt tóc rất nhiều lần nhưng không dám đối mặt với người thợ cắt tóc ấy: Tôi lại kiên nhẫn 
tự thuyết phục mình một cách xử trí êm nhất: đừng bao giờ đặt chân đến trước mặt người thợ 
cắt tóc và bà mẹ anh ta nữa. Người ta đã dời cái quán đến một phố khác. Lần trước, anh ta 
đã nhận ra cái mặt của anh rồi. Thì lúc này là cơ hội "tẩu thoát" êm nhất. Trong tâm trí của 
người họa sĩ ấy lúc bấy giờ tồn tại những suy nghĩ trái ngược, nửa muốn trực tiếp đối mặt, nửa 
lại thanh minh cho sự thất hứa của bản thân, biện minh cho sai lầm của quá khứ với lý do vì 
một mục đích lớn lao hơn. Nhưng mục đích lớn lao ấy là gì khi đó không phải là giá trị thực 
sự của bức tranh? 
+ Cuộc đối thoại với người thợ cắt tóc để tìm đến sự giải thoát về tinh thần: Vẫn là quán cắt 
tóc ấy, cái quán mà ông đã lui tới nhiều lần không đếm xuể nhưng cảm giác lo sợ vẫn còn 
nguyên như lần đầu họa sĩ nhận ra người lính năm xưa. Nhưng có lẽ lương tâm của người nghệ 
sĩ không cho phép ông trốn tránh nữa, người họa sĩ đã thú nhận sai lầm của mình và chấp nhận 
chịu mọi hình phạt, tựa như tên tội nhân đầu thú để nhận lấy sự khoan hồng từ chính bản thân 
mình chứ không còn là một người làm nghệ thuật tao nhã nữa. Người họa sĩ đã thoát ra khỏi 
bóng ma của hư danh để mong muốn nhận ánh sáng của sự khoan hồng một lần nữa. Ông đã 
 84 
xóa đi rào cản định kiến về những con người bình thường, xóa đi những ngộ nhận về vị trí của 
bản thân để nhận được sự tha thứ, ánh sáng của sự vị tha. 
 3. Chi tiết 
Sự sóng đôi của hai bức tranh trong truyện có ý nghĩa đặc biệt, là nền tảng làm nổi bật 
luận đề tác phẩm. Hai bức tranh soi vào nhau, chiếu rọi sự giằng xé trong thế giới tinh thần 
của nhân vật. 
- Bức tranh thứ nhất là kết quả của sự hối lỗi vì trước đó, họa sĩ “lạnh lùng” từ chối đề nghị 
“tha thiết” của người lính. Theo lời của họa sĩ thì đây là một bức tranh ngoài ý định nghệ thuật. 
Song chính cái giây phút “cầu ơ” ấy lại là giây phút tạo nên một bức tranh nổi tiếng. Thậm 
chí, nó là cái “đinh” trong sự nghiệp của người nghệ sĩ, nó tồn tại một cách bền vững trong 
khi những bức tranh từng được ông dồn biết bao tâm huyết lại nhanh chóng bị lãng quên. Chỉ 
trong khoảnh khắc ngắn ngủi giữa trời bom rơi đạn nổ, một bức tranh được ra đời. Bức tranh 
ấy “trở thành tác phẩm hội họa nổi tiếng”. Nó là hiện thân của nghệ thuật, là sự nảy nở của cái 
đẹp trên nền của sự khốc liệt chiến tranh. Nó là kết tinh của nỗi niềm gia đình, quê hương sâu 
nặng, của tình mẫu tử thiêng liêng. 
- Bức tranh thứ hai là một bức chân dung tự họa của người nghệ sĩ. Nhưng khác với bức tranh 
trước đây được vẽ vội vàng trong khoảng nửa tiếng đồng hồ, bức tranh này được họa sĩ vẽ 
trong khoảng thời gian “không biết bao tháng nay”. Mới hay, để tự họa chân dung mình, tự 
nhìn thẳng, nhìn đúng vào cái phần khuất tối, hèn kém của mình đâu phải là chuyện một sớm 
một chiều. Chiếm gần trọn bức tranh là: một cái mặt người rất lớn, những luồng ánh sáng 
hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa cái đầu tóc tốt rợp như 
khu rừng đen bí ẩn và một nửa mái tóc đã cắt thoạt trông như một phần bộ óc màu xám vừa 
bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt: như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: 
Cái cằm hai bên mép bị phủ kín bởi bọt xà phòng, chỉ trông thấy một vệt lờ mờ màu đen nổi 
bồng bềnh trên đám bọt xà phòng phồng to. Đó chính là đường nét trong bức tranh mà họa sĩ 
muốn dùng ngọn bút vẽ để tự tìm hiểu, tự phán xét. Bức tranh chính là “khuôn mặt mình”, 
“khuôn mặt bên trong của chính mình” – “cái khuôn mặt ngồi trên chiếc ghế mộc, đối mặt với 
người thợ cắt tóc” – chính là người chiến sĩ thồ tranh cho họa sĩ năm xưa ở chiến trường, người 
mà họa sĩ còn mắc nợ một lời hứa. 
→ Kết cấu truyện được lồng vào hai bức tranh: Bức tranh truyền thần người chiến sĩ thồ tranh 
và bức tranh tự họa của họa sĩ. Bức tranh tự họa lại được đặt trong lối kết cấu đầu cuối tương 
ứng, nổi bật với đôi mắt mở khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc đang nhìn vào nội tâm. 
Mỗi bức tranh mang một thông điệp, một dụng ý nghệ thuật của nhà văn, thể hiện con người 
ở nhiều phương diện. 
III. Tổng kết 
1. Về nội dung 
- Khám phá, tôn vinh “chất ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, trong tính lưỡng 
diện, đa trị, không ngừng biến động với cả Rồng phượng lẫn Rắn rết. Qua đó, tác giả gửi tới 
thông điệp cần nhìn nhận, suy nghĩ lại chính mình giữa nhịp sống hối hả, nhộn nhịp thời hậu 
chiến. 
- Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp thiện lương độ lượng, tha thứ cho lỗi lầm của con người và đặt 
niềm tin ở phần thiện lương, nhân tính tốt đẹp của con người. 
2. Về nghệ thuật 
- Nghệ thuật trần thuật: 
+ Ngôn ngữ trần thuật chân thực, bình dị, sâu sắc, mang tính triết lí, với giọng kể lúc trầm 
lắng, lúc gấp gáp, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dẫn người đọc vào thế giới nghệ thuật của 
truyện ngắn “Bức tranh” một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, để lại nhiều dư ba. Một điểm cộng 
lớn cho tác phẩm này đó là ngòi bút khai thác tâm lý thông qua độc thoại và đối thoại nội tâm 
 85 
sắc sảo mà đầy mềm mại của Nguyễn Minh Châu đã giúp ông truyền tải trọn vẹn những thông 
điệp đầy ý nghĩa. 
 + Điểm nhìn trần thuật: Chủ thể kể chuyện được đặt vào người họa sĩ, hình thức kể ở ngôi thứ 
nhất với điểm nhìn trong câu chuyện. Với điểm nhìn này, nhân vật cùng lúc sắm cả hai vai: 
người kể chuyện và nhân vật truyện. Điều này cho phép nhà văn bộc lộ tư tưởng thông qua 
suy nghĩ, độc thoại nội tâm nhân vật. Có thể xem truyện ngắn “Bức tranh” là lời tự thú, lời tự 
vấn mang tính triết lý sâu sắc. 
+ Lối kết cấu đầu cuối tương ứng có thể coi là một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. 
Nếu như ở phần đầu, họa sĩ thông báo về một bức tự họa đã hoàn thành thì phần sau được coi 
là một ghi chú về tác phẩm. 
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: 
+ Người họa sĩ: Là nhân vật chính trong truyện ngắn, là một họa sĩ giàu đam mê và thành 
danh. Anh từng “công tác ở một chiến trường cực kì xa xôi, giáp biên giới miền Tây Nam Bộ”. 
Số tranh và kí họa của họa sĩ vẽ trong mấy năm “đã chất lên đầy một cái sạp lớn giữa rừng căn 
cứ”. Nhà văn đã đặt nhân vật vào một tình huống - cuộc hội ngộ bất ngờ và là khởi đầu cho 
hành trình tự vấn lương tâm ở người họa sĩ. Ngòi bút tinh tế và đầy khéo léo của Nguyễn Minh 
Châu đã miêu tả một cách chân thực những nội tâm day dứt trăn trở ấy. Cuộc đấu tranh nội 
tâm đang chênh vênh giữa hai bờ thiện và ác, cái cao đẹp sẽ chiến thắng hoặc cái xấu xa, thấp 
hèn sẽ cất tiếng cười ngạo nghễ. Người họa sĩ đứng chấp chới giữa ranh giới mong manh của 
lương tri và tội lỗi, nhưng cuối cùng ông đã giữ cho mình một tấm lòng trong sáng. Từ đó dẫu 
nhà văn không miêu tả chi tiết về tính cách, ngoại hình nhưng qua những lời độc thoại, tự vấn 
của nhân vật, người đọc có thể thấy được phẩm chất, tính cách cũng như chân dung nhân vật. 
Nhà văn sử dụng hàng loạt câu hỏi tự vấn xuất hiện trong lời độc thoại của nhân vật: “Tôi biết 
nói thế nào để các bạn có thể cảm thụ được cái cảm giác phạm tội của tôi lúc ấy nhỉ?/Tại sao 
ngày ấy tôi đã không đưa tấm ảnh đến cho gia đình anh?/Tại sao tôi không giữ lời hứa?/Mà 
tôi vẫn còn nhớ, tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh và hùng hồn lắm và cũng thực tâm lắm 
chứ?... để khắc họa cảm giác tội lỗi tạo nên cuộc xung đột giữa hai con người ngay trong một 
con người. Cuộc đấu tranh nội tâm được đẩy lên cao trào khi Nguyễn Minh Châu đưa ra cuộc 
trò chuyện giả tưởng giữa người họa sĩ và người lính năm xưa. Con người ấy khi nhìn rõ 
“khuôn mặt bên trong” của mình thì đã mạnh mẽ thừa nhận tất cả những lỗi lầm. 
→ Nhân vật được đặt trong tương quan với nhiều mối quan hệ khác nhau, trong đó có bản thân 
mình. Thông qua nhân vật họa sĩ, nhà văn muốn nhắn nhủ: Mỗi con người hãy cảnh tỉnh với 
chính mình. Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để suy 
nghĩ về chính mình. 
+ Nhân vật anh chiến sĩ: Xuất hiện song song với nhân vật họa sĩ là anh chiến sĩ có vẻ ngoài 
bình thản, trầm mặc cùng tấm lòng nhân hậu, vị tha. Anh chỉ “lẳng lặng đi xuống đồi” khi bị 
chàng họa sĩ từ chối vẽ giúp một bức tranh truyền thần để gửi về cho gia đình. Thậm chí khi 
biết người họa sĩ không mang bức tranh về cho mẹ, đến nỗi người mẹ đáng thương ấy mù lòa 
cả đôi mắt vì nhớ thương con thì anh cũng không một lời trách móc, tận tụy với công việc và 
đối diện với vị họa sĩ danh tiếng kia bằng thái độ bình thản nhất: Giá lúc đó, sau khi cắt tóc 
xong, anh bảo tôi hãy ngồi lại để hỏi cái món nợ tám năm về trước, thì có thể sau đó tôi không 
trở lại cái quán cắt tóc ấy nữa, cũng nên. Thế nhưng anh vẫn làm như không hề bao giờ quen 
biết tôi. Khi tôi ra về, anh chào tôi một cách thân mật, nhã nhặn sau khi nhận tiền cắt tóc. 
→ Với cách đặt nhân vật vào điểm nhìn của người họa sĩ cũng như cách khắc họa chân dung 
qua cử chỉ, hành động, lời nói đã tạo nên một nhân vật ghi dấu ấn sâu đậm và góp phần tạo 
nên giá trị tác phẩm. Ánh sáng của sự độ lượng tỏa ra từ lương tri người chiến sĩ là điểm nhấn 
nhân đạo đắt giá cho truyện ngắn Bức tranh. Sự cố tình “không quen” của người chiến sĩ để 
người họa sĩ không phải hổ thẹn chính là ánh sáng “khai tâm” giúp vị danh họa hiểu về lẽ phải, 
về cái đẹp đang tồn tại một cách đích thực trong cuộc đời. 

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_tim_hieu_van_ban_ng.pdf