SKKN Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng Tiếng Việt của học sinh trong Trường PT DTNT cấp 2-3 Vĩnh Phúc
“Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển” đối với bộ môn Ngữ Văn nếu chỉ chú trọng đến cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên hay tổ chức dạy học... vẫn là chưa đủ; chúng ta còn cần quan tâm đến việc học tập và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt bởi đó chính là công cụ quan trọng để các em giao tiếp và khám phá tri thức, hình thành kĩ năng.
Để thực hiện quan điểm giáo dục toàn diện theo chỉ đạo của Bộ GD - ĐT, chúng ta không thể bỏ qua bộ môn Ngữ văn bởi từ bao đời nay “Văn học là nhân học”. Dạy văn trong nhà trường là một môn học quan trọng và ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Dạy văn là dạy làm người, dạy cho học sinh cách nói, cách viết sao cho đúng và hay. Vì thế, nhiệm vụ của người giáo viên không chỉ là truyền thụ cho học sinh vốn văn hoá tri thức phổ thông về Văn học mà còn phải giúp học sinh vận dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong cách nói, cách viết sao cho đúng, chuẩn mực. Để đạt được điều đó thì vai trò của người giáo viên rất quan trọng, giáo viên phải chủ động trong việc tìm tòi, nhận diện các lỗi mà học sinh thường hay mắc phải để giúp học sinh hoàn thiện năng lực viết văn và nói năng trong cuộc sống.
Trong quá trình giảng dạy và chấm bài, tôi thấy hiện tượng học sinh viết sai chính tả rất phổ biến. Việc mắc lỗi nhiều lần như vậy sẽ làm giảm giá trị của câu văn, bài viết gây khó chịu cho người đọc. Nhất là do thói quen nói năng ở địa phương và việc học sinh chưa có ý thức sửa chữa hoặc không phát hiện được lỗi sai khi nói và viết. Vì thế, tôi chọn áp dụng sáng kiến: “Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng Tiếng Việt của học sinh trong Trường trung học phổ thông”. Việc lựa chọn đề tài này sẽ có tác dụng định hướng cho học sinh những yêu cầu cơ bản khi sử dụng tiếng Việt về các phương diện ngữ âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, cấu tạo văn bản và phong cách ngôn ngữ... Từ đó nhằm khắc phục và hạn chế được cho học sinh những lỗi cơ bản thường mắc phải.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng Tiếng Việt của học sinh trong Trường PT DTNT cấp 2-3 Vĩnh Phúc

+ Câu phải có thông tin mới Xét về cấu trúc nội tại của câu, hai yêu cầu đã nêu là hai yêu cầu cần nhưng chưa đủ. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, về bản chất là quá trình trao đổi thông tin. Qúa trình trao đổi thông tin thật sự có hiệu quả chỉ khi người nói, người viết đưa ra những thông tin mới đối với người nghe, người đọc Ví dụ: Nó đá bóng bằng chân. Nó nhìn tôi bằng đôi mắt.v.v... là những câu tuy thoả mãn cả hai điều kiện về cấu tạo ngữ pháp, quan hệ ngữ nghĩa, nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu về thông tin. Sửa lại bằng cách thêm định ngữ cho danh từ chỉ phương tiện, công cụ. Ví dụ: Nó đá bóng bằng chân trái. Nó nhìn tôi bằng đôi mắt nghi ngờ.v.v... + Câu phải được đánh dấu câu phù hợp (chú ý phần 2.4) Phương pháp chữa câu Phải tìm ra nguyên nhân câu sai rồi mới tiến hành sửa - Tìm hiểu xem câu sai do nguyên nhân từ vựng hay ngữ pháp. - Câu sai do không hiểu nghĩa của các thực từ, không hiểu cách sử dụng các hư từ. - Câu sai do không biết sử dụng dấu câu, không biết tách ý một cách hợp lí, đặc biệt là không biết chấm câu. - Câu sai do mất tính lôgic trong diễn đạt, tổ chức câu rối loạn, thiếu bộ phận quan trọng của câu. - Câu sai do chưa hiểu phong cách chức năng đang sử dụng. Dựa vào năm nguyên nhân chung nêu trên, chúng ta căn cứ vào các lỗi câu cụ thể để sửa một cách chính xác. Chú ý khi chữa các câu sai, việc thêm bớt từ là cần thiết. Bởi nếu không làm việc đó, chúng ta không diễn đạt được mối quan hệ giữa các bộ phận (các thành phần) của câu. *Ví dụ: - Bằng trí tuệ sắc bén, thông minh của người lao động không những đấu tranh trực tiếp mà còn đấu tranh gián tiếp chống chế độ phong kiến. - Qua nhân vật chị Dậu cho ta thấy rõ những đức tính cao đẹp đó. - Về cách làm công nghiệp hoá của nhiề càn bộ khoa học, cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí, công nhân, viên chức, các nhà doanh nghiệp tập trung kiến nghị: ■=> Những câu trên là những câu không phân định rõ thành phần trạng ngữ và chủ ngữ. Vì thế để sửa lỗi sai trên, ta chỉ cần tách đúng các câu thành phần của chúng ra, bằng cách: tạo ra chủ ngữ của câu, bỏ quan hệ từ của, từ “qua"” hoặc thêm dấu phẩy sau từ “người ”, “chị Dậu Ví dụ 2: Con mồi bị trúng tên, giãy giụa, rồi bỏ chạy thục mạng. ■=> Câu thiếu tính lôgíc: giãy giụa: trạng thái bị thương nặng, kiệt sức nên không thể bỏ chạy thục mạng được. Sửa: bỏ từ “ giãy giụa ”. Với sản xuất, nó là người luôn có sáng kiến. Câu trên dùng sai quan hệ từ làm cho quan hệ giữa các thành phần không logic, phải sửa lại thành : Trong sản xuất, nó là người luôn có sáng kiến. Ví dụ 3: Lòng tin tưởng sâu sắc của những thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung kích sẽ tiếp bước mình. (1) Với nghệ thuật so sánh của tác giả đã làm nổi bật sự hi sinh to lớn của những người mẹ Việt Nam. (2) Chúng ta những học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. (3) Những câu trên đều sai vì thiếu thành phần chủ ngữ hoặc vị ngữ, để sửa lại thành câu đúng cần thêm các thành phần cho câu. Câu (1) thiếu vị ngữ, nên muốn đúng chỉ việc thêm vị ngữ cho câu : Lòng tin tưởng sâu sắc của những thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung kích sẽ tiếp bước mình là nguồn động lực kích thích sự sáng tạo của thế hệ trẻ. Câu (2) là câu thiếu thành phần chủ ngữ. Chữa loại câu này bằng cách thêm chủ ngữ: bỏ từ của, thêm dấu phảy thì tác giả trở thành chủ ngữ Với nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật sự hi sinh to lớn của những người mẹ Việt Nam. Câu (3) cũng là câu thiếu thành phần vị ngữ, sửa lại bằng cách thêm vị ngữ cho câu, thêm từ là sau chúng ta. Chúng ta là những học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. 5. Hướng dẫn học sinh một số mẹo sửa lỗi chính tả - Về chính tả, chúng ta nên tuân thủ theo quy ước chung được trình bày trong từ điển Tiếng Việt và từ điển Phổ thông. Tuy nhiên, do tiếng Việt có nhiều phương ngữ, thổ ngữ, nên bên cạnh tính thống nhất là chủ đạo nó cũng có những nét dị biệt khá rõ ràng trong cách phát âm, cách dùng từ giữa các vùng và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ về sự tồn tại trong thực tế 3 “giọng” nói khác nhau: “giọng” miền Bắc, “giọng” miền Nam, “giọng” miền Trung. Cho nên đặc trưng phát âm của từng vùng khác với phát âm chuẩn là nguyên nhân dẫn đến những cách viết sai chính tả. - Để giảm bớt nhưng loại lỗi này cần chú ý ghi nhớ để có thể nói và viết đúng. Ví dụ: Cặp: i - y: Vật lí - Vật lý. Cặp: a - â: Thầy giáo - thày giáo. Cặp: a - ă: Hàng tháng - hằng tháng. Cặp: o - ô: Nhỏm dậy - nhổm dậy. ■=> trong các cặp: a - â; nên lấy “â” làm chuẩn. a - ă: nên lấy “ a” làm chuẩn. o - ô: nên lấy “ ô” làm chuẩn. i - y: từ nào đã quen viết y thì giữ nguyên, các từ mới xuất hiện nên lấy i làm chuẩn. Vì “i” gần với các ngôn ngữ khác, là âm có tính quốc tế hơn. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh phân biệt các phụ âm qua một số mẹo sau: - Mẹo n -1: Hiện tượng lẫn lộn n - l là lỗi chính tả phổ biến ở Bắc bộ. Để giảm bớt hiện tượng này cần chú ý một số quy tắc sau: + L đứng trước âm đệm còn N không đứng trước âm đệm( trừ chữ noãn trong noãn sào, noãn cầu): loa, loét, loắt, luật, luỹ.. + Trong từ láy phụ âm đầu chỉ cần biết một âm tiết bắt đầu bằng L hay N là suy ra được âm tiết kia: lạnh lùng, lặn lội, lăm le, nặng nề, no nê, náo nức... + Trong từ láy bộ phận vần( không láy phụ âm đầu) không có chữ N đứng ở đầu âm tiết : lệt bệt, lò cò, lộp cộp, lò dò, liên miên, lau chau, lăng xăng,lăm tăn, lai rai, lởn vởn, lênh khênh. + Trong từ láy bộ phận vần: phụ âm đầu của âm tiết thứ nhất không phải là GI (hoặc không phải là âm tiết thiếu phụ âm đầu) thì phụ âm đầu của âm tiết thứ hai không thể là N, (trừ: khúm núm, khệ nệ): khéo léo, khoác loác, cheo leo,... gian nan, gieo neo, ảo não, áy náy,... + Những từ có từ đồng nghĩa bắt đầu là NH, từ đó viết bằng N; những từ có từ gần nghĩa bắt đầu là Đ (hoặc C/K) Từ đó viết bằng N: lài (nhài), lỡ (nhỡ), lố lăng, (nhố nhăng), lấp láy (nhấp nháy), lem luốc (nhem nhuốc),.; này, nấy, nó (đây, đó, đâu, đấy). + Về nghĩa, những từ chỉ hoạt động ẩn náu, chỉ phương hướng thường viết bằng N: náu, né, nép, nấp, nương, nam, nồm. Mẹo: ch - tr: Có thể nhớ một số quy tắc nhỏ để phân biệt ch/ tr như sau: + TR: không kết hợp với những vần bắt đẫu bằng oa, oă, oe, uê: choáng mắt, loắt choắt, choai choai, choèn choẹt. + Từ láy phụ âm đầu phần lớn là CH, (còn từ láy phụ âm đầu là TR rất ít: trơ trọi, trơ trụi, trống trải, trần truồng, trùng trục, trơ trẽn, trâng tráo, trơn trạo, trừng trộ, trì trệ, trục trặc, trối trăng... + về ý nghĩa: Các đồ vật trong nhà thường viết bằng CH: chum, chén, chĩnh, chai, chăn, chảo, chày chổi, chậu... *Những từ chỉ quan hệ gia đình viết bằng CH: cha, chú, cháu, chat, chị, chồng,... *Những từ ngữ chỉ quan hệ ngữ pháp phủ định viết bằng CH: chẳng, chăng, chưa, chớ... *Những từ chỉ quan hệ ngữ pháp vị trí viết bằng TR: trên, trong, trước. + Cây thực vật thân gỗ ra hoa kết quả viết bằng CH: chanh, chôm chôm... Cây thực vật thân tre, gỗ viết bằng tr: trám, tre, trúc. + Cặp: chuyền - truyền: Khi hoạt động, trạng thái diễn ra có thể nhìn thấy vật thể chuyển động, hoặc là danh từ, viết ch: chuyền bóng, dây chuyền, bay chuyền.... Khi hành động hoặc trạng thái của hành động diễn ra không nhìn thấy vật thể chuyển động hoặc là sự thay đổi, chuyển động trừu tượng, viết tr: truyền máu, truyền thống, truyền nhiệt ... + Cặp : chuyện - truyện: Khi là danh từ chỉ các tác phẩm, viết “truyện”: truyện ngắn, truyện dân gian. Khi chỉ hành động hoặc trạng thái của hành động, sự diễn ra của hành động, viết “chuyện”: câu chuyện, có chuyện, nói chuyện, trò chuyện,.... - Mẹo: R - D- GI: + R và GI không kết hợp với những vần bắt đầu bằng: oa, oă, uâ, oe, uê, uy.: doạ nạt, doanh trại. +Trong từ láy bộ phận vần: R, láy với B,C, còn GI, D không láy : bứt rứt, bủn rủn, co ro, cập rập,. R và D láy với L; còn GI không láy: liu diu, lim dim, lò dò, lầm rầm, lai rai, lào rào. + Nếu một từ có hai hình thức viết, một trong hai hình thức đó viết bằng tr thì từ đó viết bằng GI : giăng- trăng, giầu- trầu, trai - giai, trồng- giồng. + Các động từ, tính từ hoặc từ đi kèm, bổ nghĩa cho động từ, tính từ, viết: r : rầu rĩ, buồn rầu. Các danh từ hoặc từ đi kèm, bổ nghĩa cho danh từ, viết d: dọc sông, hàng dọc... + Hành động mạnh mẽ muốn đoạt lấy về mình, viết “gi”: giành giật, tranh giành... + Hành động nhẹ nhàng hoặc trao cho người khác, viết: “d”: dành riêng, dô dành... - Mẹo X - S: + S không kết hợp với các vần bắt đầu bằng: oa, oă, oe, uê : xuề xoà, xoay xở, xoen xoét, xoăn xoắn... + Về nghĩa, những từ chỉ tên thức ăn thường viết với X: xôi, xúc xích, lạp xường, xà xíu,..; Những từ chỉ hơi đi ra viết với X: xì xỉu, xuỳ, xọp, xẹp. Những từ chỉ nghĩa sụp xuống viết bằng S: sụt, sụp, sẩy chân, kém sút.; Những từ chỉ quan hệ ngữ pháp phần lớn đi với S: sự, sẽ, sắp, sao, săn, song. + Cặp sa - xa: *Động từ hoặc danh từ là kết quả của quá trình hành động, chuyển động, viết “ sa”: sa ngã, sa lưới... *Danh từ, tính từ, trạng từ, viết “xa”: xa xôi, xa cách, đi xa... + Cặp sao - xao: • Các danh từ, đại từ, động từ và các từ đi kèm với danh từ để bổ nghĩa cho danh từ viết “sao ”: gô sao, hươu sao... *Các động từ, tính từ ghép và láy thường viết “ xao ”: xao động, xao xác. Trên đây là một số lỗi cơ bản và cách khắc phục, ngoài ra, về phụ âm đầu còn có thể có nhiều lỗi khác như không phân biệt được: v/gi/d; nh/gi/d,... Những quy tắc nhỏ trên đây chỉ mang tính bổ trợ, còn điều quan trọng giúp chúng ta ít mắc lỗi chính tả là phải nắm vững nghĩa của từng cách viết. IV. Những kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài - Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên trong quá trình dạy học, tôi thấy có hiệu quả rõ rệt. Học sinh mắc ít lỗi hơn trong việc dùng từ trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong những bài kiểm tra. Các em đã có ý thức nhận ra lỗi sai và tự sửa chữa những lỗi sai đó. - Đặc biệt học sinh các lớp do tôi trực tiếp giảng dạy đã có sự tiến bộ rõ rệt, các em trong lớp đã cùng giúp đỡ nhau luyện tập phát hiện ra lỗi sai khi phát âm. Những giờ trả bài, lớp học rất sôi nổi và có hiệu quả, vừa xây dựng dàn ý vừa sửa lỗi diễn đạt, cách dùng từ, đặt câu... từ đó các em rút được nhiều kinh nghiệm cho bài viết sau. - Kết quả giảng dạy tại các lớp 12A, 10A7 trước khi áp dụng sáng kiến (năm học 2019-2020) và sau khi áp dụng sáng kiến, (năm học 2020-2021) thông qua kiểm tra viết đã cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc áp dụng sáng kiến: STT Lớp Sĩ số Tỉ lệ mắc lỗi trước khi áp dụng đề tài Tỉ lệ mắc lỗi sau khi áp dụng đề tài 1 10A7 35 22hs = 62,9% 4hs = 11,4% 2 12A 39 28hs = 71,8% 3hs = 10,3% KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Có thể nói sáng kiến trên không chỉ áp dụng trong một năm hay một khoá mà mỗi giáo viên nên có ý thức về việc sửa những lỗi đó cho học sinh trong suốt quá trình dạy học của mình. Việc rèn luyện và sửa chữa lỗi khi sử dụng tiếng Việt cho học sinh ở nhà trường phổ thông tưởng chừng là vấn đề rất đơn giản, nhưng thực tế cho thấy vấn đề này chưa được coi trọng và áp dụng đại trà. Tại Trường THPT nơi tôi công tác, giáo viên và học sinh cùng tích cực nhập cuộc, chính vì thế các em đã có sự tiến bộ nhiều. 1. Những kiến nghị làm tăng tính khả thi của đề tài Với đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra những khuyến nghị với các trường học, nhất là ở bậc Tiểu học, THCS ở vùng nông thôn, cần rèn luyện cho học sinh cách phát âm chuẩn, viết đúng chính tả, ngữ pháp.. .các trường THPT, giáo viên cần chú ý nâng cao, hoàn thiện kĩ năng nói và viết cho học sinh. 2. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có) Không 3. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Về phía nhà trường + Bám sát các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của ngành Giáo dục + Phân công chuyên môn hợp lý + Coi trọng việc giám sát, kiểm tra, đánh giá chất lượng dạy và học + Có cơ chế khen thưởng, kỉ luật phù hợp. - Về phía giáo viên + Nhận thức rõ vai trò của người giáo viên trong sự nghiệp giáo dục + Có ý thức học tập để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn. + Có tình yêu nghề, yêu trò. - Về phía học sinh + Có ý thức, thái độ học tập đúng đắn, tích cực + Luôn chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu, chiếm lĩnh tri thức. 2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau: - Qua việc áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi thấy học sinh đã có sự tiến bộ rất nhiều trong việc sử dụng từ ngữ cũng như trong viết văn. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên trong quá trình dạy học, tôi thấy có hiệu quả rõ rệt. Học sinh mắc ít lỗi hơn trong việc dùng từ trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong những bài kiểm tra. Các em đã có ý thức nhận ra lỗi sai và tự sửa chữa những lỗi sai đó. - Đặc biệt học sinh các lớp do tôi trực tiếp giảng dạy đã có sự tiến bộ rõ rệt, các em trong lớp đã cùng giúp đỡ nhau luyện tập phát hiện ra lỗi sai khi phát âm. Những giờ trả bài, lớp học rất sôi nổi và có hiệu quả, vừa xây dựng dàn ý vừa sửa lỗi diễn đạt, cách dùng từ, đặt câu... từ đó các em rút được nhiều kinh nghiệm cho bài viết sau. 10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: - Học sinh có sự tiến bộ rõ rệt, các em trong lớp đã cùng giúp đỡ nhau luyện tập phát hiện ra lỗi sai khi phát âm. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Vũ Quang Bình Trường PT DTNT Cấp 2 3 Vĩnh Phúc “MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬA LỖI KHI SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG". Phúc Yên, ngày......tháng........năm Phúc Yên, ngày......tháng........năm Thủ trưởng đơn vị/ Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) Vũ Quang Bình TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt thực hành ( Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng) Ngữ pháp Tiếng Việt, Tập 1,2. ( Diệp Quang Ban) Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng( Đỗ Hữu Châu) Đại cương ngôn ngữ học, Tập 1,2 -( Đỗ Hữu Châu) SGK Ngữ văn 10, Tập 1,2- NXB GD SGV Ngữ văn 10, Tập 1,2 - NXB GD Các tập bài kiểm tra của học sinh. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến cấp Ngành Tên tôi: VŨ QUANG BÌNH Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường PT DTNT Cấp 2- 3 Vĩnh Phúc Điện thoại: 0913379966 Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến Cấp ngành xem xét và công nhận sáng kiến cấp cơ sở cho tôi đối với sáng kiến đã được Hội đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây: Tên sáng kiến: Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng tiếng Việt của học sinh trong trường trung học phổ thông. (Có báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến kèm theo) Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách nhiện về thông tin đã nêu trong đơn. Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị (Ký tên, đóng dấu) Phúc Yên, ngày 12/12/2020 Người nộp đơn Vũ Quang Bình
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_sua_loi_khi_su_dung_tieng_viet_cua_hoc.docx
SKKN Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng Tiếng Việt của học sinh trong Trường PT DTNT cấp 2-3 Vĩnh.pdf