SKKN Một số biện pháp tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn Lớp 9

Chúng ta biết rằng môn Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, có tầm quan trọng trong việc hình thành phẩm chất, nhân cách đạo đức cho học sinh. Đại văn hào Nga M.Gorki đã từng nói “Văn học là nhân học”, càng đi sâu vào phân tích, tìm hiểu chức năng của văn học thì ta càng thấy được tính cần thiết của bộ môn này trong đời sống của mỗi con người nói chung và học sinh nói riêng. Đó là chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ và chức năng giáo dục. Đồng thời môn Ngữ văn cũng là môn học thuộc nhóm công cụ. Nó còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác, ngược lại các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú và sinh động của cuộc sống. Khi bàn về vấn đề này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói: “Văn học, nghệ thuật là một vũ khí vô song”.

Thực tế cho thấy học sinh học môn Ngữ văn một cách nghiêm túc rất ít, hứng thú và say mê môn học lại càng hiếm hơn. Đối với dạy học Ngữ văn trong nhà trường THCS hiện nay, việc tạo hứng thú học tập cho học sinh được coi là một yêu cầu cấp thiết. Lười, ngại, chán học văn là thực trạng được "rung chuông" nhiều năm nay. Nó giống như một vết đau chưa có thuốc chữa trị. Hơn nữa trong xã hội hiện đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì những vấn đề trong văn học với không ít người là viển vông, phi thực tế.

Môn Văn không phải là môn học thời thượng. Do vậy theo quan điểm dạy học theo hướng “Tích cực hoá” lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm thì vai trò của người thầy là người tổ chức - chủ đạo, học trò là người chủ động khám phá - lĩnh hội kiến thức. Giáo viên cần không ngừng sáng tạo, đổi mới trong từng tiết dạy nhằm phát phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh để cho các em không những hiểu mà còn cảm được những vấn đề trong văn bản, đồng cảm với cảm xúc, thái độ của tác giả, hình thành những kĩ năng cần thiết, rút ra những bài học nhân sinh quý báu. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ, bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình hàng ngày, trước thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống trong guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại. Văn học bồi đắp cho học sinh lòng yêu nước, thái độ trân trọng truyền thống và ngôn ngữ Mẹ đẻ... Thời nào cũng vậy, tác phẩm Văn học chân chính có khả năng kì diệu là thanh lọc tâm hồn con người, làm người “gần người hơn”. Xuất phát từ lí do đó giúp tôi viết sáng kiến kinh nghiệm:Một số biện pháp tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Ngữ văn lớp 9 nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh.

doc 22 trang Trang Lê 17/08/2025 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn Lớp 9

SKKN Một số biện pháp tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Ngữ Văn Lớp 9
 phim“ Ngã ba Đồng Lộc” giúp học sinh hình dung rõ hơn về công việc, đời sống của những nữ thanh niên xung phong trong thời kì kháng chiến chống Mĩ ... Ngoài ra, giáo viên có thể khai thác thêm những hình ảnh, đoạn phim nói về đề tài chiến tranh của các phim truyện, phim tài liệu, các ký sự, phóng sự , ...
2.2.4. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh.
 a. Ra đề kiểm tra : Khi kiểm tra để lấy điểm miệng không nên cứng nhắc là kiểm tra vào đầu tiết học; có thể linh hoạt chuyển đổi giữa tiết hoặc cuối tiết học. Cũng có thể cho điểm miệng trong quá trình tham gia xây dựng bài mới. Xây dựng đề kiểm tra 15 phút trở lên, thì giáo viên cần có sự phân loại đối tượng học sinh. Đề kiểm tra phải đảm bảo những yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng học sinh đã học ở từng bài, từng chương hoặc từng phần kiến thức. Không nên ra những dạng câu hỏi đánh đố hay những loại câu hỏi ngoài kiến thức sách giáo khoa. Hiện nay ra đề kiểm tra dựa theo 3 mức độ nhận thức từ thấp đến cao (nhận biết, thông hiểu, vận dụng). Đối với bộ môn Ngữ văn, đề kiểm tra của ba phân môn có sự khác nhau. Đối với Tiếng Việt: đề có nhiều câu hỏi với những hình thức khác nhau. Tuỳ theo đặc điểm từng phần kiến thức mà có tỉ lệ câu hỏi phù hợp. Đối với Văn: Không nên có trắc nghiệm vì ở loại bài này, ngoài việc kiểm tra kiến thức còn rèn kĩ năng diễn đạt cho học sinh. Đề Tâp làm văn nên là những đề có mệnh lệnh.
b. Chấm bài kiểm tra: Chấm bài kiểm tra không chỉ đòi hỏi chấm đúng đáp án mà còn là yếu tố quan trọng đối với việc tao hứng thú học tập cho các em. Yêu cầu phải chấm chính xác, công bằng. Cùng với con điểm được thể hiện trong phần ghi điểm, giáo viên nên nhận xét thêm về thực trạng của bài làm. Ví dụ như việc sai các lỗi chính tả hoặc lỗi lặp từ, lỗi diễn đạt, chưa làm tốt được phần nào, hoặc còn thiếu phần nào để các em biết những hạn chế của mình và sẽ khắc phục lần sau...Đồng thời giáo viên nên chú ý đến việc sửa lỗi trực tiếp vào bài kiểm tra. Những phần nào mà các em chưa làm được hoặc làm sai sẽ gạch chân trực tiếp vào phần đó, sau đó sửa lại sang phần bên lề của bài kiểm tra hoặc sẽ bổ sung những ý còn thiếu bằng cách gợi ý. Chính việc ra đề và chấm bài kiểm tra đã đề cao hơn trách nhiệm của người thầy.
2.2.5. Giao tiếp, ứng xử với học sinh trong giờ học.
- Khi lên lớp, giáo viên đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp học. Do đó, thái độ, tâm lý, tác phong của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý học sinh. Chính vì thế mà hiện nay ngành giáo dục đã và đang phát động phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” có nghĩa là cần tạo bầu không khí thân thiện, gần gũi với học sinh và “Mỗi giáo viên là một tấm gương sáng để học sinh học tập và làm theo”. Và đặc biệt, vai trò của thầy cô như là tấm gương phản chiếu cho các em, vậy cách ăn mặc và đi đứng ra sao, nói năng như thế nào là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay.
- Nếu giáo viên có thái độ thân thiện, tích cực sẽ tạo nên sự gần gũi, thân thiện, yêu mến. Và khi các em có thái độ yêu mến thầy cô giáo nào thì cũng đồng nghĩa các em sẽ yêu thích môn học đó. Ngược lại, nếu giáo viên tỏ thái độ khó gần, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ ngại giao tiếp và xa lánh giáo viên, khi đó chúng ta chưa đạt được mục đích của giáo dục. Chính vì vậy, chúng ta không nên để những vấn đề cá nhân, riêng tư ảnh hưởng đến chất lượng của tiết học. Là giáo viên dạy Ngữ Văn, tất nhiên chúng ta phải có sự ứng xử tinh tế, ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực và khéo léo, phải nắm bắt được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh. Dù sao, các em cũng đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi dậy thì, do đó những thay đổi về tâm sinh lí là những điều dễ bắt gặp.
2.2.6. Việc đánh giá, nhận xét học sinh trong tiết học.
Khi kiểm tra bài cũ, nếu xảy ra hiện tượng học sinh không thuộc bài hoặc không làm bài thì giáo viên cũng không nên sử dụng những ngôn ngữ xúc phạm các em. Khi giảng bài mới, giáo viên thường nêu ra câu hỏi gợi mở để thu hút các em. Nhiều học sinh xung phong trả lời và có câu trả lời đúng thì đó là điều rất thành công. Ngược lại, nếu không có em nào giơ tay thì giáo viên sẽ nói thêm một câu khích lệ các em “nếu ai trả lời đúng cô sẽ cho điểm”. Cùng với đó là hiện tượng có học sinh trả lời nhưng câu trả lời ấy không đúng, giáo viên sẽ không phê bình mà nhận xét về câu trả lời của học sinh đó một cách tích cực để không làm mất đi sự hứng thú học tập. Khi các em trả lời đúng hoặc có những phát hiện sáng tạo, chúng ta nên động viên khích lệ các em bằng điểm số.
2.2.7. Công tác hướng dẫn tự học ở nhà cho học sinh: 
Việc hướng dẫn học sinh tự học là một hoạt động hết sức quan trọng đối với bất kỳ bộ môn học nào. Hoạt động này quyết định rất lớn đến việc tự học, tự tìm hiểu của học sinh, giúp học sinh phát huy được tính chủ động của mình và cũng giúp tiết học thành công.
+ Bước 1: Khi kết thúc bài học, giáo viên hướng dẫn các em về xem lại những nội dung trọng tâm trong bài học (trong phần củng cố bài học ngoài việc giáo viên nhắc lại những kiến thức trọng tâm thì giáo viên phải có định hướng cho HS tham gia tổng kết bài, nêu những kiến thức trọng tâm)
+ Bước 2: Khi hướng dẫn các em chuẩn bị bài mới cho tiết học sau, giáo viên phải cụ thể hóa các nội dung trọng tâm của bài học đó ra, đồng thời yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ để tiết sau GV có thể kiểm tra. Tùy theo phân môn mà có những hướng dẫn cụ thể.
* Ví dụ: TIẾT 56+57 - BẾP LỬA ; HDĐT ( 3-5 P) : 
 KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ.
- Bài cũ: 
+ Đọc thuộc lòng bài thơ Bếp lửa.
+ Nắm nội dung bài thơ : Hình ảnh bếp lửa, hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ, về bà và tình bà cháu, suy ngẫm về bà và bếp lửa, niềm thương nhớ của cháu.
+ Nắm nghệ thuật bài thơ.
+ Đọc diễn cảm bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Tiếp tục nghiên cứu kĩ các phần còn lại của bài thứ hai theo hướng dẫn của GV
- Bài mới: Ánh trăng
+ Tìm hiểu vài nét về tác giả, tác phẩm 
+ Phân tích bài thơ
+ Nội dung và nghệ thuật của bài thơ 
+ Xem phần luyên tập.
2.2.8. Thường xuyên kiểm tra việc học bài và soạn bài mới.
Đây là một hoạt động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi lên lớp. Trong thực tế, có rất nhiều học sinh lười biếng việc học bài và soạn bài nên có nhiều em thực vi hiện nhiệm vụ mang tính đối phó, lấy lệ. Do đó chúng ta nên kiểm tra thường xuyên. HS vi phạm thường xuyên có thể sẽ chấm điểm miệng. Trong quá trình kiểm tra cần có sự đánh giá, nhận xét theo hướng khích lệ động viên sự nỗ lực cố gắng của các em.
2.2.9. Hướng dẫn tài liệu cho học sinh. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều sách tham khảo, nhưng chọn những sách tham khảo nào, của NXB nào mới là điều quan trọng. Do đó giáo viên có thể hướng các em nên chọn những quyển sách của những NXB có uy tín như NXB Giáo dục, NXB Đại học sư phạm, NXB Lao động...
2.3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua một thời gian rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi nhận thấy khả năng hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn Ngữ văn được nâng lên rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn; tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói “Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Các em đã biết lớn lên cùng môn Văn. Chính từ những giờ Văn đó, các em am hiểu các tác phẩm văn học, biết viết văn, nâng cao vốn từ ngữ tiếng mẹ đẻ, có năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ với tư cách là một công cụ để tư duy, giao tiếp và để học tập. Đồng thời các em đã biết yêu, biết ghét, biết cảm nhận, biết vui buồn theo đúng cách, biết cái thiện, ác, tốt, xấu trong cuộc sống. Mỗi tiết Văn các em đã biết cần phải là người có ích cho xã hội, cho cả bản thân mình. Mỗi tác phẩm là một bài học sống được chắt lọc từ tâm hồn tác giả và cuộc đời, tạo cho ta một niềm tin vững chắc vào cuộc sống, tin mọi người và tin yêu mọi thứ. Cuộc sống không hề buồn tẻ và đơn điệu. Các em như thấy mình lớn hơn, yêu cuộc sống, yêu văn học hơn. Ngoài kia cuộc sống còn rất nhiều thứ để học hỏi, ước mơ, nhiều người mà các em có thể đặt niềm tin, nhiều tầm nhìn để lựa chọn. Những giờ học văn đó đã vun đắp thêm cho các em tình cảm giữa con người với con người. Nếu trước đó môn văn trong suy nghĩ của các em thật viễn vông và nhàm chán, không phải là môn học thời thượng thì giờ đây các em đã biết điều chỉnh hành vi, lời nói của mình trong cuộc sống và ứng xử với mọi người xung quanh. Hơn thế, các em được cảm nhận, được nghĩ, được viết bằng cách của chính mình trong tương quan với cuộc sống thực tiễn của thế hệ mình. Các em không chỉ được biết nhiều điều tồn tại trong sách vở mà còn bước ra cuộc sống một cách đầy sinh động bằng những câu chuyện kể, những lời dặn dò, những lời tâm sự hoặc có khi là cả những tiết chỉ để cô trò cùng nói về những chủ đề tuổi teen quan tâm. Vâng, chính niềm say mê của thầy cô trong từng giờ dạy, sự hứng thú của các em trong mỗi giờ học, sự gần gũi thiết thực của kiến thức, kĩ năng gắn liền với thực tiễn sẽ giúp các em cứng cáp, trưởng thành hơn bằng chìa khóa riêng của mình. Rồi đây, khi các em không còn là những cô cậu học sinh dưới mái trường nữa, con đường tương lai của các em sẽ theo những ngã rẽ khác nhau thì các em vẫn có thể vững tin trên con đường mà mình đã chọn. Bởi vì các em đã được trang bị ngoài những kiến thức cơ bản từ sách vở, thì đó còn là những kĩ năng được hình thành trong quá trình học môn Ngữ văn. Các em sẽ tự nhận thức và đánh giá về mình, tự xác định giá trị để định hướng cho suy nghĩ, lối sống và hành động của bản thân. Các em biết lắng nghe tích cực, biết tự tin trong giao tiếp, biết hợp tác, tôn trọng ý kiến của nhau.
Như vậy, sau thời gian áp dụng tôi thấy tỉ lệ HS tích cực, hứng thú trong học văn so với điều tra, theo dõi ban đầu là có sự tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ HS khá giỏi về bộ môn tăng lên đáng kể. Cụ thể điểm kiểm tra môn Ngữ văn giữa kỳ 1 là.
Lớp
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9.1
36
3
8,3 %
17
47,2%
15
41,7%
1
2,8 %
9.2
37
4
10,8%
18
48,7%
14
37.8%
1
2,7%

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý NGHĨA 
Chúng ta có thể khẳng định rằng, môn Văn là môn học có tác dụng hình thành nhân cách, hình thành tâm hồn của con người. Và có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Văn. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm xúc nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hoà cùng nhịp đập trái tim.
 	Với phương pháp “ Một số biện pháp tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Ngữ văn lớp 9" đã một phần gây hứng thú hơn trong tiết học, học sinh đã có sự chuyển biến hơn tích cực giao lưu với thầy cô giáo hơn, trong mỗi giờ học tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham gia vào quy trình dạy - học, các em không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài mà cảm thấy hứng thú hơn, hăng say phát biểu bài hơn. Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp tối ưu nhất bởi vì cũng không phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò chơi một cách hiệu quả. Chính vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào chúng ta cũng cần kết hợp rất nhiều các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy của mình. 
 	Phương pháp hoạt động nhóm thì chúng ta đã áp dụng từ rất lâu và ít nhiều đã đạt kết quả cao trong dạy học, còn hình thức sử dụng trò chơi khi giảng dạy môn ngữ văn thì có nhiều trò chơi đang còn khá mới mẻ đối với mỗi giáo viên. Mặc dù trong quá trình giảng dạy bản thân tôi cũng nhận thấy còn một số thiếu sót, hạn chế khi áp dụng các hình thức trên. Bởi kinh nghiệm trên chỉ là kinh nghiệm chủ quan của cá nhân tôi và những kinh nghiệm đó bản thân tôi cũng chỉ mới áp dụng được chủ yếu là ở khối 9. 
Do vậy bản thân mỗi giáo viên phải dành nhiều thời gian cho việc dạy học; phải có sự hiểu biết tốt nhất về phương pháp kết hợp cùng với nghệ thuật, kỹ thuật sư phạm. Người giáo viên dạy Ngữ văn phải yêu nghề, tâm huyết với nghề, phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng. Từ đó giáo viên cần biết vận dụng để giáo dục học sinh về kĩ năng, thái độ... 
 	Là một giáo viên mới ra trường, tuổi đời và tuổi nghề còn rất trẻ nên với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không có tham vọng đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà xin nêu một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích lũy được trong quá trình giảng dạy, mong muốn được cùng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Tôi mong được sự góp ý, chỉ bảo của các đồng chí, đồng nghiệp, của các đồng chí lãnh đạo, các cấp quản lý giáo dục để những kinh nghiệm này được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn.
3.2. KIẾN NGHỊ.
1. Đối với phụ huynh.
 - Quan tâm hơn nữa đến việc học hành của con em mình, dành nhiều thời gian cho các em học tập.
 - Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
2. Đối với giáo viên.
 - Nắm vững bản chất đặc trưng của môn Ngữ văn, thực tế việc dạy - học Ngữ văn trong nhà trường hiện nay.
 - Không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ từ thực tế đời sống và nghiên cứu thêm về nghệ thuật sư phạm, tự bồi dưỡng những phương pháp dạy học tích cực, tạo một không khí học tập vui vẻ, thoải mái giúp HS ngày càng yêu thích bộ môn Ngữ văn, giúp việc dạy học đạt kết quả cao.
- Bên cạnh đó, phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, tìm các thông tin mới, hấp dẫn trên mạng internet làm cho các tiết học sinh động, lượng thông tin HS thu được nhiều.
 - Cần có sự hiểu biết về tâm lí lứa tuổi HS, biết khuyến khích động viên kịp thời, biết gần gũi tìm hiểu nguyên do khi các em có biểu hiện tiêu cực, biết nghiêm khắc phê bình những biểu hiện chây lười của HS.
3. Đề xuất: Không
 MỤC LỤC
1
Phần Mở đầu
Trang 1
1.1.
Lý do chọn sáng kiến
Trang 1
1.2.
Điểm mới của sáng kiến
Trang 2
1.3.
Phạm vi áp dụng sáng kiến
Trang 3
2.
Phần Nội dung
Trang 4
2.1.
Thực trạng của sáng kiến kinh nghiệm 
Trang 4
2.2.
Các giải pháp thực hiện 
Trang 5
2.3.
Kết quả
Trang 23
3.
Phần Kết luận
Trang 25
3.1.
Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Trang 25
3.2.
Kiến nghị, đề xuất 
Trang 26



















 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kĩ năng dẫn nhập, kĩ năng kết thúc - Đỗ Huy Lân ( NXB Giáo dục Việt Nam 2009)
2. Hợp tuyển nghiên cứu-giảng dạy văn học và ngôn ngữ ( Nhà xuất bản Đà Nẵng ).
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9.(NXB Giáo dục)
4.Giáo trình lí luận văn học - Trần Đình Sử ( NXB Đại học sư phạm, 2007)
5. Biết và hiểu trong phê bình và sáng tác -Văn nghệ 1/1/ 2011- Tô Hoài.
6. Cách dạy văn đang lạc hậu bậc nhất thế giới - Thể thao Văn hoá Chủ Nhật, 17/05/2009 - Tạ Duy Anh.
7. Học Sử để biết làm người- Xưa và Nay - số 385- 08/ 2011- Nguyên Ngọc.
8. Luật giáo dục (NXB Lao động 2010).
9. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) 
10. Tài liệu tập huấn: Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh.Môn: Ngữ Văn, cấp THCS.
 *********************************

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_tao_su_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_t.doc