SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7

Môn Ngữ Văn chính là môn dạy đạo đức và nhân cách cho các em học sinh. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và phát triển tư duy của con người nhất là người học sinh. Môn ngữ văn cũng là môn học có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Bởi văn học giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp, hiểu biết về thế giới bên ngoài xã hội và con người.Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp các em học tốt hơn các bộ môn khoa học khác.

Nhưng trên thực tế, phần lớn học sinh không thích học môn học này, thậm chí có em còn sợ mỗi khi đến giờ học văn. Đặc biệt là những tiết học Tiếng Việt, các em vẫn thường cho rằng nó khô khan, phức tạp và tẻ nhạt. Một thực tế nữa là hiện nay việc dạy ngữ pháp tiếng việt trong trường phổ thông cơ sở chưa được đầu tư nhiều so với giờ học văn bản. Bởi giờ dạy tiếng việt thường khô khan, lượng kiến thức nhiều, quá tải với học sinh nhất là học sinh lớp 7. Đó là điều khiến tôi thật sự trăn trở. Những suy nghĩ đó đã thôi thúc tôi không ngừng học hỏi, nghiên cứu các phương pháp mới để dạy tốt môn Ngữ văn nói chung đặc biệt là phân môn Tiếng Việt.

doc 12 trang Trang Lê 28/03/2025 170
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7

SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tiếng Việt Lớp 7
o bài bằng một câu hỏi rất tự nhiên khi vào lớp:
- Hôm nay em nào trực nhật?
Một HS đứng dậy trả lời: Thưa cô, hôm nay em trực nhật ạ!
Tôi hỏi tiếp: Còn ai trực nhật cùng bạn? 
HS khác: Thưa cô, em ạ!
Tôi nói: Cả hai câu trả lời của các em có thể chấp nhận được không? Vì sao? Khi nào cần sử dụng câu có đủ chủ ngữ, vị ngữ? Khi nào không cần thiết? Từ đó sẽ rút ra nội dung cho bài mới hôm nay.
 Lúc bấy giờ HS mới ồ lên vì thích thú, các em không ngờ rằng câu hỏi đó lại chính là cách để cô giáo dẫn các em vào bài mới. Và thế là các em bị cuốn hút vào bài mới một cách rất tự nhiên, các em sẽ hứng thú học ngay từ ban đầu.
c.1 Phương pháp gợi mở: 
- Là phương pháp được sử dụng khi học sinh không thể giải quyết được vấn đề hoặc áp dụng đối với đối tượng học sinh yếu, kém. Phương pháp này nhằm giúp các em tìm ra lời giải cho nội dung bài học muốn truyền thụ. Ta có thể sử dụng phương pháp này suốt cả tiết học. Từ những hướng dẫn, gợi mở của giáo viên, học sinh có thể đi đến kết luận cuối cùng và hình thành ghi nhớ cũng như có khả năng giải quyết một số bài tập “hóc búa”. 
VD: Khi dạy bài: Câu rút gọn, tôi đặt câu hỏi:
? Khi nào có thể sử dụng câu rút gọn? Khi nào không nên sử dụng? 
HS chưa thể trả lời ngay, trong truờng hợp đó ta có thể hỏi tiếp bằng cách gợi mở: 
+ Các em hãy chú ý đến môí quan hệ giữa hai người khi giao tiếp (Mẹ - con; ông - cháu). HS sẽ thấy ngoài việc hoàn cảnh cho phép thì khi sử dụng câu rút gọn cần chú ý đến mối quan hệ trên - dướiTừ đó HS hiểu bài sẽ sâu hơn, có ý thức khi sử dụng câu rút gọn nói riêng và câu nói chung.
c.2 Phương pháp sử dụng câu hỏi vấn đáp: 
- Đây là phương pháp thông dụng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong hầu hết các tiết dạy. Để thực hiện tốt phương pháp này, tôi đã chuẩn bị thật kỹ cho mình một hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó cho mọi đối tượng học sinh. Việc chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi sẽ tạo “bước ngoặt” cho tiết học. Bởi vì, học sinh sẽ hứng thú hơn khi trả lời những câu hỏi thú vị, vừa tầm hiểu đối với kiến thức của các em. Phương pháp này đi kèm cùng phương pháp gợi mở. 
VD: Khi dạy bài "Câu đặc biệt", sau khi học sinh hiểu thế nào là câu đặc biệt, tôi liền đặt tiếp câu hỏi vấn đáp: Câu đặc biệt khác với câu rút gọn ở điểm nào? 
Vậy khi nào ta sử dụng câu đặc biệt? 
- Trên cơ sở HS trả lời những câu hỏi đó, các em đã có thể hiểu sâu hơn về kiến thức câu đặc biệt và câu rút gọn
c.3 Phương pháp thảo luận nhóm: 
- Dạy và học theo phương pháp mới không thể thiếu được phương pháp thảo luận nhóm. Đó là một trong số những phương pháp hay được sử dụng trong hệ thống các phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Trong quá trình học tập, người học khi đứng trước vấn đề, phải tự tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, lập luận, thuyết minh làm sáng tỏ vấn đề. Biết hợp tác, chia sẻ là một cách tối ưu để tìm đến kiến thức, để tìm đến chân lý khoa học tốt nhất.
- Vai trò của giáo viên trong quá trình hướng dẫn học sinh thảo luận rất quan trọng. Trong khi các em thảo luận, tôi luôn là người tổ chức, tạo điều kiện lắng nghe và hỗ trợ khi cần. Tuy nhiên, chúng ta không nên can thiệp quá sâu vào nội dung thảo luận của các em, cần để cho các em chủ động làm việc, thể hiện quan điểm của mình. Tránh để cho cuộc thảo luận tẻ nhạt, chỉ tập trung vào một số học sinh khá giỏi; cũng tránh để một vài ý kiến của một vài em nào đó lấn át ý kiến của các em khác. 
- Cuộc thảo luận sôi nổi, bình đẳng giữa mọi thành viên trong lớp sẽ giúp cho mỗi cá nhân tự tin, thoải mái hơn khi học tập, các em được phát biểu ý kiến của mình một cách hiệu quả nhất. Kết quả cuộc thảo luận được khẳng định bằng cách ghi lại (giấy hoặc bảng con), trên cơ sở đó giáo viên sẽ nhận xét và đánh giá. 
c.4 Muốn giao tiếp tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh, phải tạo được tình huống có vấn đề để học sinh chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng kiến thức:
- “Tình huống có vấn đề” là trong đó học sinh (có tư cách làm chủ nhận thức) ở một trạng thái tâm lí đặc biệt. Trong hoạt động học tập các em gặp phải khó khăn, trở ngại về nhận thức, cảm thấy có mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái các em chưa biết, các em có nhu cầu nhận thức là cần phải phát hiện, lĩnh hội những tri thức mới, những hành động mới. 
- Như vậy giáo viên không chỉ truyền đạt thông tin mà còn phải là người tổ chức và định hướng các em, đưa các em vào tình huống có vấn đề. Từ đó các em:
+ Phân tích tình huống có vấn đề.
+ Nêu giả thuyết.
+ Đưa ra lời giải .
+ Rút ra kết luận.
Ví dụ : Dạy bài: "Câu đặc biệt". Khi ta đưa ra ngữ liệu là một đoạn văn có câu đặc biệt là ta đã tạo một tình huống nảy sinh mâu thuẫn: đó là học sinh đã được học về câu hai thành phần. Các em biết rằng dùng câu phải đủ hai thành phần Chủ ngữ và Vị ngữ. Không được dùng câu thiếu thành phần không rõ chủ ngữ hay vị ngữ. Vậy dùng câu đó đúng hay sai? Nếu đúng thì dùng như vậy nhằm mục đích gì? Có tác dụng gì? Giải quyết được mâu thuẫn này là học sinh đã chiếm lĩnh tri thức về câu đặc biệt. 
- Như vậy, ta thấy việc tạo ra tình huống có vấn đề sẽ gây được hứng thú cho học sinh trong giờ học, phát huy được tính tích cực, tư duy cho học sinh. Tuy nhiên cần lưu ý tạo ra các tình huống có vấn đề sát với tình huống thực. Đó là các tình huống giao tiếp xảy ra trong thực tế. Có như vậy mới giúp học sinh vượt qua những trở ngại tâm lý khi học tiếng mẹ đẻ và tạo hứng thú học tập. 
d. Sử dụng phương tiện dạy học hỗ trợ: 
d.1 Bảng phụ: 
- Bảng phụ là phương tiện hỗ trợ tích cực nhất, đắc lực nhất cho giáo viên và học sinh trong tiết học Tiếng Việt. Với giáo viên, bảng phụ được sử dụng khi giáo viên trình bày những ví dụ để hướng các em đến hệ thống kiến thức cần ghi nhớ hoặc các bài tập cần giải quyết khi có thảo luận nhóm. Những ngữ liệu được trình bày trên bảng phụ giúp các em nhìn nhận vấn đề rành mạch hơn, dễ nhớ hơn. Bản thân tôi sử dụng bảng phụ cho hầu hết các phần của bài học. Từ kiểm tra bài cũ đến phân tích ngữ liệu, làm bài tập bổ sung, hỗ trợ
- Ưu điểm của việc sử dụng bảng phụ là giáo viên có thời gian chuẩn bị trước, không cần phải ghi chép lên bảng, nên có thời gian nhiều hơn cho việc giải quyết bài tập, truyền đạt kiến thức mới. Nhược điểm của nó là phải mang nhiều tấm bảng phụ cho mỗi tiết học. Nếu có hệ thống máy chiếu thì sẽ tiện hơn rất nhiều. 
- Còn với HS, các em có thể sử dụng bảng phụ để trình bày những bài tập nhỏ theo nhóm. Theo đó, kết quả thảo luận được nhóm trưởng ghi vào bảng phụ và trình bày cho giáo viên xem. Ưu điểm của bảng này là dễ trình bày, xóa đi khi cần. Nhưng nhược điểm đôi khi các em không tận dụng kết quả tìm được theo nhóm mà lại nhân lúc này để nói chuyện. Giáo viên cần tránh tình trạng này khi dạy.
d.2 Tranh minh hoạ: 
- Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực trong tiết dạy Tiếng Việt mà không phải giáo viên nào cũng thực hiện được. Bởi lẽ, bản thân giáo viên không có năng khiếu hội họa mà thuê họa sĩ vẽ thì rất tốn kém. Tranh minh hoạ sẽ giúp cho giáo viên rất nhiều trong việc so sánh đối chiếu và hình thành khái niệm ở học sinh và đặc biệt lôi cuốn sự chú ý, tập trung của học sinh vào bài học. 
- Ví dụ khi dạy bài "Từ đồng âm" tôi đã sử dụng ba bức tranh mới với ba nội dung khác nhau nhưng chúng đều minh hoạ cho từ “Lồng”. Từ đó, tôi đã phân tích từ loại, nghĩa của chúng để các em so sánh, đối chiếu và cuối cùng đi đến khái niệm “Từ đồng âm” . 
Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác mà mỗi giáo viên sẽ phải vận dụng khi đặt vào những tình huống cụ thể đó và được xem là bản lĩnh của người thầy giáo - người nghệ sĩ khi đứng trên bục giảng.
d.3 Sử dụng sơ đồ tư duy.
- Nhằm hướng dẫn các em có thói quen tư duy logic theo hình thức sơ đồ hóa trên bản đồ tư duy. Giúp các em khắc sâu kiến thức sau mỗi bài học và tìm hiểu những kiến thức mới trong mỗi phần có nhiều lượng kiến thức. Áp dụng ở những tiết ôn tập hoặc một số tiết lí thuyết.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách vẽ bản đồ tư duy theo nhóm hoặc cá nhân. Từ một vấn đề chính đưa ra các ý lớn, mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó. Sử dụng bản đồ tư duy khi thảo luận nhóm hoặc làm việc độc lập. 
 Sử dụng bản đồ tư duy giúp học sinh thuyết trình kiến thức tổng hợp trước nhóm, lớp. Giáo viên và các học sinh khác bổ sung, điều chỉnh hình thành kiến thức.
 Ví dụ: Sơ đồ tư duy tiết ôn tập tiếng việt tiết 120, 121
 Qua việc đưa ra các phương pháp giảng dạy vận dụng phù hợp với phân môn Tiếng việt chúng ta có thể khẳng định: Khi dạy các tiết học Tiếng việt trong nhà trường phổ thông giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể học sinh cách nhận biết, cách phân tích câu, cách dùng từ, đặt câu, cách tìm giá trị nghệ thuật đích thực của mỗi phép tu từ... để các em có thể hiểu sâu những kiến thức về việc dùng từ, đặt câu, dựng đoạn. Từ đó hiểu thêm về vai trò của bộ môn văn học, về thực tế cuộc sống, có như vậy giờ dạy Tiếng việt cũng như giờ dạy văn bản sẽ đạt được hiệu quả tối ưu.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
- Với những phương pháp cơ bản và cụ thể nêu trên tôi đã giúp cho học sinh có được những kỹ năng hiệu quả nhất trong quá trình học tập phân môn Tiếng việt . Kết quả cho thấy các em hiểu bài sâu sắc, không khí lớp học sôi nổi. Các em hào hứng học tập, vận dụng và làm tốt các dạng bài tập. 
- Ngay từ lúc bước vào bài mới với câu hỏi tình huống như vậy các em đã thực sự bị cuốn hút vào bài học trong tâm trạng hứng khởi. Các em hào hứng và thích thú khi nhận ra những cách hiểu khác nhau như vậy. Và trong tình huống đó các em thật sự hào hứng suốt cả tiết học. Trong giờ học, các em đã giơ tay xung phong làm bài tập nhiều hơn. Đặc biệt một số em nam trước đây học kém trong lớp 7A1, thường ngày không chịu ghi chép bài bây giờ cũng chăm chú hơn. Đối chiếu với kết quả kiểm tra nhanh ngay sau tiết học tôi đã ghi nhận một phần nào đó sự đi lên của các em. Kết quả khảo sát cuối học kì I năm học 2018 - 2019 cụ thể như sau: 
Lớp
Sĩ số
Kết quả kiểm tra
Giỏi
Khá
TB
Yếu
TB trở lên
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
7A1
35
12
34.2
15
42.8
7
20.0
1
3.0
34
97.1

- Sau khi áp dụng sáng kiến bản thân tôi được các đồng chí trong tổ dự rút kinh nghiệm đánh giá xếp loại đạt cụ thể như sau:
+ Đã vận dụng được một số giải pháp nâng cao chất lượng, phát huy được tính tích cực của học sinh, giờ học sôi nổi.
+ Học sinh nắm được kiến thức và vận dụng được vào bài tập. Đặc biệt vận dụng vào giao tiếp (nói và viết) khá tốt. 
+ Kết quả đạt được sau khi dạy một số tiết tiếng việt so với khảo sát ban đầu tăng lên rất rõ. Điều đó chứng tỏ rằng việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào tiết Tiếng Việt là điều rất cần thiết và hữu ích. 
IV. KẾT LUẬN
1. Tự đánh giá
- Qua nghiên cứu và thực nghiệm sáng kiến “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt lớp 7” tôi nhận thấy: Học sinh hứng thú học tâp hơn, gây được sự chú ý của học sinh. Học sinh tư duy, chủ động sáng tạo trong việc hình thành khái niệm. Hiểu bài sâu sắc, vận dụng được khá tốt quan điểm giao tiếp trong mọi tình huống nói và viết. Đó cũng chính là mục đích cuối cùng của việc dạy Tiếng Việt theo hướng giao tiếp là dạy cho học sinh tư duy tốt, giao tiếp tốt. Vì vậy vận dụng tốt các phương pháp đàm thoại, gợi mở, tạo tình huống trong giao tiếp .thì việc dạy và học Tiếng Việt nói chung - Tiếng Việt lớp 7 nói riêng mới có hiệu quả cao. Từ đó các em hứng thú học tập . Đặc biệt các em yêu quí, trân trọng vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ.
2. Những kiến nghị, đề xuất và hướng phát triển đề tài
- Có thể nói rằng: Nếu một tiết học Tiếng Việt đạt kết quả tốt thì đòi hỏi người giáo viên trước hết phải nắm vững các phương pháp đặc trưng của phân môn Tiếng Việt và vận dụng một cách linh hoạt trong mọi tình huống, trong từng bài học. 
- Người thầy chú trọng đến phương pháp dạy theo quan điểm giao tiếp. Biết tạo ra hứng thú học tập bằng những tình huống có vấn đề. Ở bất cứ bài nào về mặt nguyên tắc đều có thể nêu ra các tình huống giao tiếp giả định. Những tình huống đó phải hết sức sát thực với cuộc sống thực. Có như vậy học sinh mới tìm tòi vấn đề và đề xuất ý kiến riêng. Đây chính là quá trình học sinh học tập cách giao tiếp, cách bộc lộ tư tưởng, tình cảm, nêu ý kiến riêng để bảo vệ ý kiến của mình. đồng thời rèn cho các em những kĩ năng dùng từ, đặt câu, nói và viết trong giao tiếp. 
- Muốn vậy người thầy cần nâng cao kiến thức tay nghề để linh hoạt, sáng tạo hướng dẫn học sinh giải quyết các tình huống. Từ đây tôi có một số đề xuất như sau
+ Thứ nhất: Người thầy có cần phải chuẩn bị chu đáo về phương tiện dạy học vì những phương tiện giạy học sẽ góp phần rất quan trọng cho sự hình thành kiến thức của mỗi học sinh. Nếu thầy chuẩn bị bài tốt bị cuốn hút ngay từ đầu. Muốn làm được điều này người thầy phải chú tâm có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
+ Thứ hai: Hệ thống câu hỏi trong giờ học phải đạt hiệu quả tối ưu nhất. Những câu hỏi phải hướng các em tới việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề đặt ra trong giờ dạy. Các em không chỉ tìm hiểu kiến thức được đưa ra trong sách giáo khoa mà còn cần phải hiểu: khi nào sử dụng chúng và sử dụng như thế nào là tốt nhất? Bởi lẽ học Tiếng Việt là để giao tiếp và vận dụng khi tìm hiểu văn bản, tạo lập văn bản nên người giáo viên cần đặc biệt chú trọng vấn đề này.
+ Thứ ba: Nếu có điều kiện giáo viên nên chú ý đến hệ thống kênh hình trong quá trình dạy Tiếng Việt.- Sử dụng máy chiếu trong khi dạy vừa tiết kiệm thời gian ghi chép vừa tác động cụ thể đến thị giác của học sinh, giúp các em nhìn nhận vấn đề một cách hiệu quả nhất. Những hình ảnh sinh động, thú vị trên máy chiếu sẽ kích thích hoạt động học tập của các em. Các em sẽ cảm thấy tiết học không còn nhàm chán tẻ nhạt.
+ Thứ 4: Cần phân bố thời gian hợp lý khi chia nhóm thảo luận, chú ý đến nhiều nhóm đối tượng học sinh bởi khi thảo luận, nhiều lúc giáo viên chưa chú ý đến các nhóm học sinh trung bình, yếu. Điều đó làm hạn chế sự tiếp thu bài học của một nhóm đối tượng này. 
Như vậy, những giải pháp nói trên phù hợp với lý luận dạy tiếng Việt hiện đại. Phù hợp với thực tiễn hoạt động giao tiếp trong đời sống xã hội ngày nay, 
- Để làm tốt điều đó, tôi mong muốn nhà trường và tổ chuyên môn: 
+ Chỉ đạo sát sao việc thực hiện chuyên đề của giáo viên trong nhà trường một cách kịp thời và kiểm tra đánh giá cụ thể việc thực hiện chuyên đề.
+ Tạo điều kiện cho giáo viên học hỏi vận dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.
+ Xây dựng những buổi ngoại khóa tại những trường để tạo điều kiện cho giáo viên học hỏi kinh nghiệm.
Trên đây là một số ý kiến của tôi về vấn đề dạy phân môn Tiếng Việt trong chương trình ngữ văn nói chung và dạy Tiếng Việt lớp 7 nói riêng. Do điều kiện thời gian và hạn chế về kiến thức nghiên cứu về một vấn đề phức tạp cho nên những ý kiến của bản thân cũng như quá trình thực hiện của tôi còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp, xây dựng tận tình của Ban Giám hiệu, các thành viên Hội đồng Khoa học các cấp của ngành giáo dục, để bài viết của tôi hoàn thiện hơn.	
3. Cam kết 
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này không sao chép hay vi phạm về bản quyền.
CƠ QUAN, ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(xác nhận)
(Ký tên, đóng dấu)
Đông Hợp, ngày 02 tháng 04 năm 2019
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Huệ

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_mon_t.doc
  • docBìa.doc