SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh qua hoạt động nói và nghe môn Ngữ Văn 7 tại Trường THCS Lộc Thủy

Đây là năm học thứ ba áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với học sinh lớp 7. Cùng với đọc, viết thì nói và nghe là năng lực đặc thù của môn Ngữ văn. Qua hoạt động nói và nghe giúp học sinh tự tin khi nói trước nhiều người; sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ điệu bộ phù hợp khi nói; bước đầu đánh giá được thông tin mà người nói trao đổi và biết cách phản hồi những nội dung đã nghe một cách hiệu quả.

Không những vậy, qua các tiết dạy học Văn, tôi muốn truyền cảm hứng, tình yêu và sự say mê văn chương cho học sinh. Bởi vì trong suy nghĩ của các em, môn Ngữ văn là môn học nhàm chán, nhất là các tiết nói và nghe lại rất khô khan. Vì thế, với sự đa dạng các hình thức dạy học hoạt động nói và nghe, tôi mong muốn các em sẽ có cái nhìn mới mẻ, khơi dậy sự hứng thú, yêu thích của mình khi học văn. Từ việc đạt hiệu quả trong các tiết học Nói và nghe, học sinh sẽ vận dụng vào thực tiễn đời sống để trở thành một người linh hoạt trong giao tiếp, có khả năng xử lý mọi tình huống, phản biện, bảo vệ vấn đề mà mình trình bày.

docx 4 trang Trang Lê 31/07/2025 50
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh qua hoạt động nói và nghe môn Ngữ Văn 7 tại Trường THCS Lộc Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh qua hoạt động nói và nghe môn Ngữ Văn 7 tại Trường THCS Lộc Thủy

SKKN Một số giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh qua hoạt động nói và nghe môn Ngữ Văn 7 tại Trường THCS Lộc Thủy
PHẦN 1. TÊN BIỆN PHÁP
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC GIAO TIẾP CHO HỌC SINH QUA HOẠT ĐỘNG NÓI VÀ NGHE MÔN NGỮ VĂN 7”
PHẦN 2. NỘI DUNG BIỆN PHÁP
1. LÍ DO CHỌN BIỆN PHÁP
Ông cha ta đã từng có câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Thật vậy, học nói, học giao tiếp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người. Năng lực giao tiếp bao gồm khả năng trao thông tin và nhận lại phản hồi giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp để đạt được một mục đích nhất định. Đó chính là những quy tắc ứng xử được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày giúp mọi người giao tiếp thuyết phục và hiệu quả.
Qua thực tế giảng dạy tiết nói và nghe môn Ngữ văn 7 ở trường THCS Lộc Thủy, tôi nhận thấy học sinh vẫn chưa có kĩ năng diễn đạt theo ngôn ngữ nói. Một số em lúng túng, nói thiếu mạch lạc, không theo bố cục hợp lý. Điều này làm tôi băn khoăn, trăn trở để tìm ra phương pháp dạy tiết nói và nghe hấp dẫn, đúng yêu cầu và rèn luyện được năng lực giao tiếp cho học sinh. Chính vì vậy tôi xin đưa ra biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của mình là: “Một số giải pháp nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh qua hoạt động Nói và nghe môn Ngữ văn 7”.
2. MỤC ĐÍCH CỦA BIỆN PHÁP
Đây là năm học thứ ba áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với học sinh lớp 7. Cùng với đọc, viết thì nói và nghe là năng lực đặc thù của môn Ngữ văn. Qua hoạt động nói và nghe giúp học sinh tự tin khi nói trước nhiều người; sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ điệu bộ phù hợp khi nói; bước đầu đánh giá được thông tin mà người nói trao đổi và biết cách phản hồi những nội dung đã nghe một cách hiệu quả.
Không những vậy, qua các tiết dạy học Văn, tôi muốn truyền cảm hứng, tình yêu và sự say mê văn chương cho học sinh. Bởi vì trong suy nghĩ của các em, môn Ngữ văn là môn học nhàm chán, nhất là các tiết nói và nghe lại rất khô khan. Vì thế, với sự đa dạng các hình thức dạy học hoạt động nói và nghe, tôi mong muốn các em sẽ có cái nhìn mới mẻ, khơi dậy sự hứng thú, yêu thích của mình khi học văn. Từ việc đạt hiệu quả trong các tiết học Nói và nghe, học sinh sẽ vận dụng vào thực tiễn đời sống để trở thành một người linh hoạt trong giao tiếp, có khả năng xử lý mọi tình huống, phản biện, bảo vệ vấn đề mà mình trình bày. 
3. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
3.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh thực hành nói theo bố cục ba phần
Đầu tiên, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài nói của mình thành một văn bản tóm gọn như dàn ý chi tiết. Thao tác này giúp học sinh rèn luyện được kỹ năng bao quát nội dung bài nói của mình một cách gọn gàng nhất. Sau đó, tùy theo nhiệm vụ mà giáo viên yêu cầu cụ thể cá nhân học sinh lên trình bày. Căn cứ vào tình hình thực tế, giáo viên xử lý linh hoạt để nhiều học sinh được nói. Có thể trong một bài nói, giáo viên chia nhỏ ra từng phần và yêu cầu mỗi học sinh thực hiện mỗi nhiệm vụ khác nhau. 
Ví dụ 1: Bài 3: Trình bày ý kiến về một vấn đề đời sống (được gợi ra từ một nhân vật văn học) 
Đề bài: Suy nghĩ của em về bài học tình yêu thương qua nhân vật mèo Gióc-ba trong câu chuyện “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” của nhà văn Lu-i Xe-pun-ve-da.
Mục tiêu: Tạo sự hứng thú, lôi cuốn, kích thích học sinh trình bày nội dung nói một cách phong phú, phát huy tính sáng tạo, chủ động về chủ đề tình yêu thương.
Cách tiến hành: Giáo viên chia nhỏ từng phần và yêu cầu mỗi học sinh thực hiện từng phần một. Tùy vào năng lực của mỗi học sinh, giáo viên lựa chọn nội dung nói phù hợp, giúp các em phát huy được khả năng của bản thân. Ví dụ, một học sinh trình bày phần mở đầu, hai học sinh trình bày phần nội dung và một học sinh trình bày phần kết thúc. 
Đánh giá hiệu quả sau khi sử dụng giải pháp hướng dẫn học sinh thực hành nói theo bố cục ba phần: Việc thực hành nói theo bố cục ba phần đã hình thành kĩ năng trình bày logic, khoa học của mỗi cá nhân học sinh. Học sinh được nói theo khả năng của mình, ngay cả đối tượng học sinh đạt, chưa đạt các em cũng sẵn sàng chia sẻ. Việc nói theo bố cục ba phần sẽ rất sinh động và thú vị, tạo hứng thú và đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy và học tiết nói và nghe.
3.2. Giải pháp 2: Thi nói tiếp sức đồng đội
Sức mạnh của đồng đội, tập thể có vai trò to lớn so với đơn lẻ từng cá nhân. Trong quá trình làm việc nhóm, các thành viên sẽ cùng nhau chia sẻ trách nhiệm, hỗ trợ lẫn nhau để phát triển tài năng. Giáo viên có thể dùng hình thức này đối với lớp dạy có nhiều học sinh đạt, chưa đạt không quen nói trước tập thể, lại ít có nhân tố tích cực là những học sinh tốt khá, lanh lợi làm nòng cốt. Cách nói này yêu cầu nói trong phạm vi thời gian nhất định, tạo không khí sôi nổi, kích thích sự mạnh dạn, tự tin cho các em học sinh. Giáo viên sẽ tổ chức thi nói tiếp sức đồng đội theo hai bước như sau:
Bước 1: Nói trong nhóm	
Giáo viên phân loại học sinh (tốt, khá, đạt, chưa đạt) trong mỗi nhóm. Ở các nhóm đều thống nhất phần nói:
Phần mở đầu: học sinh đạt, chưa đạt
Một phần của phần nội dung: học sinh tốt, khá
Phần kết thúc: học sinh đạt, chưa đạt
Học sinh dựa trên dàn ý đã xây dựng, luyện nói với nhau trong nhóm. Các bạn trong nhóm nhận xét, góp ý về nội dung bài nói và cách thức nói: Bài nói đã đủ ý chưa? Bài nói có mạch lạc không? Ngôn ngữ diễn dạt như thế nào? Phong cách nói ra sao? Giọng nói có rõ ràng, tự nhiên không?...
Bước 2: Nói trước tập thể lớp
Mỗi nhóm lần lượt lên nói theo hình thức tiếp sức. Cụ thể nhóm 1: Học sinh đạt, chưa đạt nói phần mở đầu; học sinh tốt khá nói một phần của nội dung; học sinh đạt, chưa đạt nói phần kết thúc. Tiếp theo nhóm 2 tương tự như vậy. Học sinh trong lớp theo dõi, nhận xét. Giáo viên đánh giá về nội dung, cách nói đối với các nhóm và cho điểm. Đặc biệt nhấn mạnh phần cho điểm đối với nhóm có học sinh đạt, chưa đạt nói khá tốt, mạnh dạn, tự tin; học sinh tốt, khá nói tốt kèm giọng điệu, thái độ, cử chỉ...cho bài nói.
Ví dụ 2: Bài 4: Trình bày ý kiến về những hoạt động thiện nguyện vì cộng đồng
Mục tiêu: tạo không khí thi đua sôi nổi trong các nhóm, các em được thể hiện năng lực nói của mình một cách hiệu quả. Mỗi cá nhân sẽ kích thích được khả năng, ý thức cố gắng để đóng góp vào kết quả của cả nhóm.
Cách tiến hành: Giáo viên tổ chức cuộc thi nói giữa các nhóm về nội dung trình bày ý kiến về những hoạt động thiện nguyện vì cộng đồng. Các em sẽ tiến hành nói trong nhóm để trao đổi, nhận xét lẫn nhau. Sau đó, giáo viên quy định trong thời gian 7 phút các nhóm lần lượt lên trình bày bài nói của mình. Học sinh theo dõi, nhận xét và giáo viên đánh giá trên cơ sở ghi nhận sự cố gắng nỗ lực của các nhóm.
Đánh giá hiệu quả sau khi sử dụng giải pháp thi nói tiếp sức đồng đội: Giải pháp thi nói tiếp sức đồng đội đã tạo không khí sôi nổi, hấp dẫn, đem lại hiệu quả cao trong giờ học. Tất cả các thành viên của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em được trải nghiệm. Tiết học Nói và nghe trở nên nhẹ nhàng, hứng thú với học sinh, giúp các em rèn luyện sự tự tin, nâng cao tinh thần đoàn kết và dễ dàng tiếp cận với kiến thức mới của bài học.
PHẦN 3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trong quá trình dạy học, khi tôi áp dụng các giải pháp trên thì sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, học sinh và học sinh được gắn kết hơn. Các em mạnh dạn thể hiện nội dung mình muốn trình bày và tăng cường trao đổi với nhau trong quá trình thực hiện hoạt động. Mỗi học sinh đều phát huy tối đa khả năng của bản thân, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao chất lượng bài nói của mình.
Với những chuyển biến tích cực trên, chất lượng tiết học nói và nghe ở học sinh khối 7 (lớp 7A, 7B) với số lượng 51 học sinh đã có sự thay đổi đáng kể. Tỉ lệ học sinh tốt, khá dần được nâng cao, tỉ lệ xếp loại đạt, chưa đạt giảm so với trước khi áp dụng biện pháp.
Giai đoạn
Khảo sát chất lượng học tập
TỐT, KHÁ
ĐẠT
CHƯA ĐẠT
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Trước khi áp dụng giải pháp
13
25,4%
22
43,3%
16
31,3%
Sau khi áp dụng 
giải pháp
25
49,0%
19
37,2%
7
13,8%

Có thể khẳng định, rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh phụ thuộc vào các hình thức tổ chức nói và nghe có hấp dẫn và thú vị hay không. Do vậy, giáo viên cần nhận thức đúng vai trò của hoạt động nói và nghe, đa dạng hóa các hình thức tổ chức để huy động học sinh tham gia tích cực trong tiết học. Từ đó, người học sẽ yêu thích, chủ động, giờ học nhẹ nhàng, sôi nổi và đạt được hiệu quả như mong muốn, góp phần nâng cao năng lực giao tiếp của học sinh trong đời sống hằng ngày. 
 Lệ Thủy, ngày 28 tháng 12 năm 2023
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI BÁO CÁO
 (Ký tên, đóng dấu)
 Võ Thị Nguyệt

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_nang_luc_giao_tiep_cho_hoc_si.docx