SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn 7
Từ lâu môn Ngữ văn trong nhà trường luôn được coi là một môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học. Mỗi tác phẩm văn học là một viên ngọc sáng tô điểm thêm vẻ đẹp cho cuộc sống muôn sắc màu. Nó còn là chìa khóa giúp con người tiến vào mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội. Có thể thấy văn học đã trở thành một khí giới thanh cao và đắc lực tác động mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của tất cả chúng ta.
Cùng với sự ra đời và phát triển của nhiều thể loại văn học thì thơ ca trung đại Việt Nam chính là bộ phận gắn liền với một giai đoạn cực kì quan trọng trong lịch sử của đất nước. Suốt mười thế kỉ trung đại, văn học Việt Nam đã kết tinh nhiều giá trị thâm sâu, trở thành niềm tự hào cho hậu thế. Văn học trung đại Việt Nam đến nay vẫn là một sức hút mãnh liệt đối những nhà nghiên cứu học thuật trong và ngoài nước, là nơi thể nghiệm và đạt được nhiều thành tựu của nhiều công trình nghiên cứu văn học. Đặc biệt trong chương trình Ngữ văn THCS, thơ ca trung đại Việt Nam đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, quan điểm, lí tưởng thẩm mĩ...cho học sinh, thông qua những thành quả nổi bật của người xưa trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, kết tinh trong các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu.
Có thể thấy rằng việc dạy văn học ở nhà trường nói chung và dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh là một vấn đề đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học văn cũng như nhiều giáo viên giảng dạy văn học quan tâm..Trong chương trình Ngữ văn 7 kì I có một số lượng tương đối lớn các văn bản thuộc thể loại thơ trữ tình trung đại Việt Nam đã góp phần bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, tinh thần nhân đạo, lòng tự hào dân tộc, …. Tuy nhiên để giúp học sinh cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của các văn bản ấy đối với giáo viên không phải là điều dễ bởi các tác phẩm này thường viết bằng chữ Hán, sử dụng nhiều điển tích, điển cố, có nhiều từ cổ, từ Hán Việt nên học sinh khó nắm bắt. Bên cạnh đó, các văn bản này thuyết phục người nghe không chỉ bằng lí trí mà còn bằng cả tình cảm nên cách thức giảng dạy cũng có khác so với các thể loại khác.
Qua thực tế giảng dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở trường THCS bản thân tôi nhận thấy đây là thể loại văn học tương đối khó, hơn nữa các tác phẩm thơ ca trung đại được tính từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX đã cách chúng ta một khoảng cách rất xa về không gian và thời gian. Mặt khác đối tượng để cảm và hiểu cái hay cái đẹp của các tác phẩm này lại là các HS lớp 7, có thể trong số đó, có một số em mê văn song để nắm được cái thần của bài thơ, hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài thơ quả là rất khó. Vì thế, người giảng dạy gặp khó khăn trong soạn giảng, nhiều học sinh ít hứng thú, không tích cực trong giờ học những bài thơ cổ. Vấn đề đặt ra là phải có những biện pháp tối ưu nhằm giúp giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập thơ trữ tình trung đại Việt Nam, giúp các em học tốt hơn bộ môn Ngữ văn 7 vì thế tôi mạnh dạn xây dựng đề tài có nội dung: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong chương trình ngữ văn 7” nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 7 nắm vững hơn phương pháp tiếp cận thể thơ này với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn 7

ễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,... thơ Thất ngôn bát cú Đường luật vẫn chiếm phần chính. b. Xác định bố cục của bài thơ: Việc nắm được bố cục góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu và phân tích bài thơ... Nắm được bố cục chính là nắm được mạch cảm xúc của bài thơ.Từ đó giáo viên có hướng đi đúng trong quá trình tìm hiểu giá trị nghệ thuật và nội dung của bài thơ .Thông thường bố cục của bài thơ Đường luật tùy thuộc vào thể thơ. - Với thể Thất ngôn bát cú gồm 4 phần (Đề, thực, luận, kết), mỗi phần có một nhiệm vụ khác nhau. - Với thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Gồm 4 phần (Khai đề, thừa đề, chuyển đề, hợp đề). Mỗi phần ứng với một câu thơ và mang nhiệm vụ riêng. - Với thể Ngũ ngôn tứ tuyệt: gồm 4 phần (đề, thực, luận, kết). Tuy nhiên bố cục của bài thơ có thể thay đổi linh hoạt. Trên thực tế sáng tác, không phải bài thơ nào cũng có kết cấu 4 phần một cách cứng nhắc như vậy. Do đó, khi phân tích kết cấu một bài thơ Đường luật phải bám sát vào thực tế của văn bản, không nên áp đặt khuôn mẫu vào việc phân tích mà cần phải linh hoạt để làm nổi bật nội dung của bài thơ. Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Qua Đèo Ngang” (Bà huyện Thanh Quan), đây là một bài thơ tuân theo các quy định nghiêm ngặt của phong cách thơ Đường. Vì vậy, giáo viên có thể hướng dẫn HS khai thác theo bố cục của bài thất ngôn bát cú, gồm 4 phần đề - thực – luận – kết. Ở mỗi phần luôn có sự song hành bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng, giáo viên cần chú ý hướng dẫn HS khai thác tìm hiểu. Hoặc chia bài bát cú thành 2 phần: bốn câu đầu gọi là “nửa trên” thì nặng cảnh nhẹ tình ; bốn câu sau gọi là “nửa dưới” thì nặng tình nhẹ cảnh. Nhưng với bài thơ “Bạn đến chơi nhà” (Nguyễn Khuyến), vẫn là đề - thực - luận-kết với niêm, luật, vần, đối rất chuẩn như luật thơ Đường quy định nhưng phá cách ở ý tưởng, ở cấu tứ bài thơ. Vì thế, khi dạy bài thơ này nên đi theo diễn biến tự nhiên quá trình cảm xúc của nhân vật trữ tình, nên chia bài thơ theo 3 ý như sau: 1-Cảm xúc khi bạn tới chơi (câu 1); 2-Cảm xúc về gia cảnh (câu 2 đến câu 7); 3-Cảm xúc về tình bạn (câu 8). c. So sánh phiêm âm với bản dịch thơ. Với những bài thơ Đường luật viết bằng chữ Hán gồm 3 phần: phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ,không phải ngẫu nhiên mà SGK đưa vào như vậy mà đó là dụng ý có tác dụng.Vì vậy, giáo viên cần giúp học sinh đọc thật kĩ để so sánh và tìm ra sự khác biệt giữa bản phiên âm với bản dịch thơ.khi đó học sinh không chỉ hiểu mà còn thấy được sự sáng tạo tài tình việc sử dụng từ ngữ điêu luyện và hiểu được tinh thần, tư tưởng, tâm hồn của nhà thơ. Ví dụ: Khi dạy bài “Sông núi nước Nam” cuả Lý Thường Kiệt giáoviên cần giúp học sinh phát hiện câu 1, 2, 4 vần với nhau ở tiếng cuối. Ba tiếng bắt vần với nhau đều là vần bằng, thanh không. Ở bản dịch thơ, ba tiếng cuối câu 1, 2, 4 cũng vần với nhau: “ở”, “sở”, “vỡ”. Khác với bản nguyên tác là người dịch dùng vần trắc, hai thanh hỏi, ngã nhưng vẫn đúng luật thơ, đọc lên ta vẫn thấy xuôi tai, hài hòa, cân đối; vẫn thể hiện được tinh thần của bài thơ. d. Phân tích giá trị nghệ thuật của bài thơ qua phép đối và các biện pháp nghệ thuật khác. - Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau. Đây là yếu tố bắt buộc trong thơ Đường luật (Đối: đối xứng, đăng đối, đối ứng để tạo nên sự hài hoà chứ không phải đối lập). Thơ Đường luật có tới 11 loại đối như đối câu, đối từ, đối ý, đối nhip... Một cặp đối, một cặp thơ được coi là một cặp đốì hoàn chỉnh khi nó đối nhau về: từ loại, nhịp, ý. Để giúp học sinh hiểu và cảm được hết giá trị nội dung của bài thơ, giáo viên cần phân tích giá trị nghệ thuật của bài thơ qua sự kết hợp phép đối với các biện pháp nghệ thuật khác như: ẩn dụ, so sánh, điệp từ, đảo ngữ... Đây là phương pháp đặc trưng khi tìm hiểu thể loại thơ nói chung, thơ Đường luật nói riêng là đi từ tín hiệu nghệ thuật để khám phá nội dung. Ví dụ: Khi hướng đẫn học sinh tìm hiểu hai câu luận trong bài thơ bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan: “Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miêng, cái gia gia”. Giáo viên cần giúp học sinh phát hiện ra nghệ thuật đối được sử dụng trong cặp thơ là cặp đối hoàn chỉnh về cả thanh và ý. Kết hợp với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ khi đưa hai cum từ “nhớ nước” và “thương nhà” lên đầu câu, cùng cách chơi chữ “quốc”- nước; “gia”- nhà đã nhấn mạnh, làm nổi bật nỗi niềm tâm trạng khắc khoải, nhớ thương của nhân vật trữ tình. Từ đó thấy được và đồng cảm với tâm trạng hoài cổ: nhớ nước thương nhà da diết, tiếc một thời đại vàng son huy hoàng của đất nước trong lòng nhà thơ. Qua việc phân tích các biện pháp nghệ thuật và từ ngữ được sử dụng đã hình thành và khơi dậy ở học sinh năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ. Học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, rung động trước hình tượng, tình cảm được khơi gợi trong tác phẩm, nhận ra giá trị thẩm mĩ. Từ đó cảm nhận được giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ. Để rồi nâng cao nhận thức sống và hành động vì cái đẹp, cái thiện, thêm yêu Tổ quốc và sống có lí tưởng. Giải pháp 4: Một trong những biểu hiện tích cực của đổi mới phương pháp dạy học trong giờ đọc – hiểu thơ trữ tình là giảng bình. Những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ đọc – hiểu văn bản là rất cần thiết, quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm xúc của học sinh khi tiếp nhận các giá trị văn chương. Và có một thực tế là những giáo viên có những lời bình hay, độc đáo sẽ được học sinh nhớ mãi, ấn tượng mãi. Khi bình các thủ pháp nghệ thuật cũng phải chú ý lựa chọn. Trong mỗi khổ thơ hoặc ngay trong một dòng thơ, tác giả cũng đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau. Nếu bình tất cả thì không có thời gian, dẫn tới tình trạng san bằng một cách bình quân mọi yếu tố nghệ thuật. Như vậy không thể làm nổi bật cái hay, cái đẹp của các yếu tố nghệ thuật chủ yếu. Khi nhận ra những tín hiệu nghệ thuật quan trọng phải tiến hành giảng dạy cho mạch lạc ý tứ mà câu thơ thể hiện sau đó mới đi bình. Cũng có khi bình về tư tưởng, nội dung của bài thơ để thấy được cái hay của tác phẩm đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Có nhiều cách bình, có thể trực tiếp bình về cách sử dụng ngôn từ trong tác phẩm, có thể so sánh điểm tương đồng với các tác phẩm khác để thấy được nét đọc đáo riêng của tác phẩm...Tuy nhiên dù cách nào cũng vậy lời bình phải phù hợp với lời giảng trước hoặc sau đó, giảng có sâu sắc thì lời bình mới tâm đắc. Nếu giảng hời hợt, chưa tới, dù có bình tâm huyết đến mấy cũng sẽ thiếu sức thuyết phục, người đọc sẽ không tin vào những lời bình rộng như thế. Thêm nữa, lời bình thể hiện rõ nhất ở giọng điệu, cảm xúc, thái độ. Cho nên nó mang dấu ấn cá nhân người viết rất đậm. Người được xem là có chất văn, hồn văn hay không chủ yếu thể hiện ở những lời bình văn này. Và qua lời bình ấy, HS mới cảm nhận được cái hay của tác phẩm, ngâng cao hiệu quả của giờ học văn. Ví dụ: Sau khi phân tích câu thơ cuối của bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến giáo viên có thể bình: Câu kết của bài thơ với âm điệu và ngôn từ thân mật ngọt ngào. Bao nhiêu nghèo thiếu, bao nhiên lúng túng, ngượng ngùng bỗng tan đi hết để tình bạn, tình người được thăng hoa. Câu thơ ẩn ngụ cả một niềm tự hào về một tình bạn đẹp đẽ, vượt lên mọi thứ vật chất tầm thường. Đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời với rất nhiều sự đảo điên của các giá trị và quan hệ, khi thực dân Pháp xâm lược và xã hội Việt Nam đang chuyển dần sang một nước thuộc địa nửa phong kiến thì càng thấy rõ hơn giá trị của sự khẳng định tình bạn, tình người trong bài thơ. Giải pháp 5: Dạy học tích hợp các với các phân môn và các môn học khác. Tích hợp là sự kết hợp biện chứng giữa các yếu tố bộ môn Ngữ văn, baogồm phần Văn – Tiếng việt – Tập làm văn. Thực tế chứng minh rằng, bộ mônngữ văn rất cần quá trình tích hợp. Vì vậy, trong mỗi giờ ngữ văn, giáo viêncần nhấn mạnh yêu cầu này để hiệu quả bộ môn ngữ văn ngày càng được nângcao. Đặc biệt, việc tích hợp sẽ góp phần rèn luyện các kỹ năng cơ bản là:nghe, nói, đọc, viết cho học sinh theo mục tiêu của môn học. - Tích hợp ngang giữa các phân môn- văn, tiếng Việt , tập làm văn. - Tích hợp dọc nội dung học tập đồng tâm giữa các khối lớp. - Tích hợp giữa môn Ngữ văn với các môn học khác . Để giờ dạy thơ Đường luật đạt kết quả cao, giáo viên cần chú ý tới việc tích hợp với các phân môn khác như môn Lịch sử, môn Địa lý, môn Giáo dục công dân ... Có hiểu biết về các lĩnh vực khác sẽ giúp các em chủ động hơn khi khám phá tác phẩm. Khi dạy thơ Đường luật giáo viên có thể tích hợp với các phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn để củng cố và nâng cao kiến thức cho học sinh. Trong mỗi bài thơ Đường luật giáo viên có thể dễ dàng tích hợp với phân môn tiếng Việt về: từ Hán Việt, từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Ví dụ: Từ “Nam đế”: Hoàng đế nước Nam, hiểu là “vua nước Nam”. Tại sao tác giả không dùng chữ “Nam vương” cũng có nghĩa là “vua nước Nam”? Dùng chữ “Nam đế” tác giả bài “Sông núi nước Nam” muốn biển hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ ta nghe được một tiếng nói mạnh mẽ, kiêu hãnh: Phương Nam ta cũng có đế, bình đẳng, ngang hàng với phương Bắc không kẻ thù nào được phép coi thường. Thực tế khi giảng dạy giáo viên có thể tích hợp với các nội dung khác một cách linh hoạt tùy thuộc vào bài học cụ thể. Có thể tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ, trong hoạt động khởi động, trong câu hỏi tìm hiêu bài, qua viêc sử dụng bảng phụ, tranh ảnh... Nhìn chung nếu giáo viên tích hợp một cách hợp lý, nhuần nhuyễn thì hiệu quả dạy học sẽ tăng lên rõ rệt, nhất là phát huy dược vai trò chủ thể sáng tạo của học sinh. Giải pháp 6: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Như chúng ta đã biết Ngữ Văn là một trong những môn học công cụ, mang tính nhân văn, giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát. Vì vậy, dạy học Ngữ Văn theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân... nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. Thông qua việc học các tác phẩm thơ Đường luật trung đại Việt Nam, giáo viên giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực chung và năng lực chuyên biệt để các em thực sự hiểu được giá tri của tác phẩm. Ở mỗi hoạt đông giáo viên cần có những định hướng phất triển năng lực phù hợp. Ví du: Khi dạy bài “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn khuyến giáo viên có thể giúp học sinh hình thành các năng lực như: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực thẩm mỹ. Cụ thể, thông qua việc đọc văn bản giáo viên giúp học sinh hình thành năng lực tiếp nhận văn bản. Từ đó học sinh bước đầu có khả năng thu thập các thông tin,cảm thụ được tình bạn trân thành, sâu sắc trong bài thơ. Trên đây là những giải pháp của tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy và tôi đã tiến hành so sánh qua các bài kiểm tra của học sinh hai lớp 7AB và thu thập được kết quả trong năm học 2020-2021 như sau: Lớp Sĩ số Số HS không biết cách làm bài (1->4điểm) Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình-khá (5->7điểm) Số HS làm bài tốt (8-9 điểm) SL % SL % SL % 7A 35 4 11,4 26 74,3 5 14,4 7B 36 3 8,3 27 75,0 6 16,7 Qua so sánh 2 bảng kết quả trên đây cho thấy sau khi áp dụng sáng kiến trên vào giảng dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn 7 tôi đã thu được hiệu quả nhất định: Học sinh không còn ngại và sợ mà rất hứng thú học tập,hiểu bài hơn và yêu thích hơn các bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam. Với các phương pháp tiếp cận trên, có thể áp dụng đại trà cho tất cả các đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình ...và ở tất cả các trường THCS trong toàn huyện.Sáng kiến có tính khả thi cao và được áp dụng vào các tiết dạy thơ trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 7. Đây là một minh chứng cho thấy chất lượng dạy và học sẽ được cải thiện và nâng cao trong thời gian tới. Tuy nhiên việc nghiên cứu áp dụng ở mức độ ban đầu nên kết quả còn nhiều hạn chế đòi hỏi phải tiếp tục đầu tư thời gian và trí tuệ bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần mà có khi vài tháng, thậm chí cả học kì. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì khó thành công. 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa đề tài Dạy học thơ trữ tình trung đại nói chung và thơ trữ tình trung đại Việt Nam nói riêng đòi hỏi một cách tiếp cận riêng. Cái khó nhất là với mỗi bài thơ, làm sao để học sinh nắm được cái hồn thơ, nhận ra được vẻ đẹp lung linh rất khó nắm bắt ấy.Vì thế nó đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải công phu và thực nghiệm. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 7 bản thân tôi đã tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu tài liệu để từ đó đúc kết thành kinh nghiệm về phương pháp tiếp cận và cảm thụ các tác phẩm thơ Trung đại Việt Nam một cách hiệu quả nhất.Quả thật dạy văn, học văn là một năng lực tổng hợp, là quá trình bền bỉ dày công, trau dồi lâu ngày, đó là chưa nói đến năng khiếu. Song dù có năng khiếu ít hay nhiều thì sự nhẫn nại, kiên trì rèn luyện trong quá trình dạy và học vẫn là con đường dẫn đến sự thành công lớn nhất. Tôi hy vọng với một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu cuộc sống; biếtquý trọng tình bạn sống có ích và có ý nghĩa hơn. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất. Đối với Thư viện nhà trường: - Nên bổ sung nguồn tài liệu mới giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của các tác giả thơ trữ tình trung đại Việt Nam . - Các tài liệu văn học giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn học nước nhà gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Đối với các đồng chí phụ trách chuyên môn: - Cần tạo điều kiện mở thêm những lớp chuyên đề hoặc phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy, những sáng kiến kinh nghiệm hay để anh chị em giáo viên có cơ hội học tập, nâng cao tay nghề. Tóm lại với nhận thức của mình trong thời gian ngắn, tôi đã nổ lực, tìm tòi, suy nghĩ và đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có thể những quan điểm dạy học đã nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu và không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá bổ sung để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, có giá trị hơn trong thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở THCS. Xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam: Trần Đình Sử (1999), Nxb Giáo dục, Hà Nội 2. Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường: Hoàng Hữu Bội, Nguyễn Huy Quát (2001) , Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Văn học Việt Nam thế kỉ X nửa đầu thế kỉ XVIII, tập 1 :Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1978),Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 4. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 (2007), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_tho_tru.doc