SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 7 trong tiết nói và nghe tại Trường THCS Lương Thế Vinh
Trên văn bia Văn Miếu - Quốc tử giám, Thân Nhân Trung đã viết: «Hiền tài quốc gia chi nguyên khí. Nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long; nguyên khí lỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô». Quả thật, để đất nước được hưng thịnh, trường tồn, nhân tố con người luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vì lẽ đó, nhiệm vụ của giáo dục là tạo ra những con người phát triển toàn diện, đủ đức đủ tài, đáp ứng được nhu cầu của thời đại.
Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới chính thức được triển khai trên cả nước đối với học sinh lớp 1 từ năm học 2020-2021. Vì vậy, ngành giáo dục đã, đang nỗ lực xây dựng đội ngũ giáo viên không chỉ đạt chuẩn về trình độ đào tạo mà còn có tư duy đổi mới, sáng tạo trong phương pháp dạy học, đổi mới trong kiểm tra đánh giá đáp ứng yêu cầu chương trình GDPT mới theo hướng phát triển năng lực.
Để phát triển được năng lực và bồi đắp nhân cách người học trong môn Ngữ văn, chúng ta không chỉ coi trọng đổi mới chương trình SGK, kĩ thuật dạy học, đổi mới sinh hoạt tổ- nhóm CM mà còn tập trung vào khâu đổi mới phương pháp. Đổi mới phương pháp sẽ phát triển được năng lực người học và đặc biệt hơn, có thể phát hiện, khích lệ, ươm mầm tài năng và bồi đắp tâm hồn, hoàn thiện nhân cách cho HS.
Đối với Trường THCS Lương Thế Vinh, ngôi trường thuộc tốp đầu của huyện Đan Phượng, lại càng cần phải thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, rèn kĩ năng nghe- nói -đọc – viết để nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn. Tuy nhiên, những năm gần đây, việc rèn kĩ năng nói đối với các khối lớp còn nhiều khó khăn, do GV chưa kịp thích nghi với sự đổi mới, còn thụ động và lúng túng trong triển khai áp dụng; do ảnh hưởng của đại dịch Co-vid19 nên có sự điều chỉnh kế hoạch dạy học, từ đó kéo theo việc rèn kĩ năng thuyết trình, trao đổi, thảo luận của HS chưa được chú trọng đúng mức; do số tiết luyện nói trong phân phối chương trình SGK còn ít…Từ những vấn đề trên, tôi đã triển khai thực hiện, rút ra một số kinh nghiệm và đúc kết thành đề tài: “Một số giải pháp rèn kĩ năng nói trong tiết Nói và Nghecho học sinh lớp 7 ở trường THCS Lương Thế Vinh”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 7 trong tiết nói và nghe tại Trường THCS Lương Thế Vinh

àm thay cho GV đứng lớp trong việc vạch ra mục tiêu cụ thể. Chỉ có sự nhạy cảm, năng lực sư phạm, tinh thần trách nhiệm và tình yêu trẻ mới giúp chúng ta cụ thể hóa mục tiêu chung một cách sáng tạo, sát hợp. Bước 2. Lựa chọn nội dung trong tiết luyện nói: Cần lựa chọn nội dung luyện tập một cách linh hoạt, đạt hiệu quả. Vừa bám sát vào các BT ở SGK vừa vận dụng tình hình, đặc điểm cụ thể để có thể thay đổi, thêm bớt bài tập cho phù hợp. Bước 3. Xác định vai trò của giáo viên và HS trong tiết luyện nói: - Học sinh: Trong tiết luyện nói, người hoạt động chủ yếu là HS. HS phải là những chủ nhân thực sự, chiếm lĩnh hầu hết các hoạt động trong tiết học. Các em tựa như những diễn viên hoàn toàn làm chủ sân khấu với những hình thức phong phú, đa dạng : độc thoại, đối thoại, diễn trò, đóng vai... - Giáo viên: Nói chung, đối với tiết luyện nói, giáo viên nên tránh hai khuynh hướng sau: + Cho rằng giờ luyện nói là của học sinh, dành cho HS thực hành là chính; từ đó GV không làm gì cả, khoán trắng, phó mặc cho HS muốn nói thế nào cũng được; tất cả đổ cho năng lực của HS; dẫn đến tiết học đơn điệu, buồn tẻ, mất tác dụng. + Quá lo sợ rằng HS không nói được, không trình bày được vấn đề trước tập thể nên làm thay, nói hộ hết cho HS; hoặc tiến hành tiết dạy một cách qua loa, chiếu lệ cho xong. Trong tiết luyện nói, GV hoạt động rất ít để trao quyền ưu tiên cho HS hoạt động với thời lượng tối đa có thể được; thậm chí hầu như GV không làm gì cả. Nhưng ở đây, không làm gì cả không có nghĩa là khoán trắng, phó mặc HS kiểu như đã nói ở trên; mà GV vẫn là người bao quát, chỉ đạo linh hoạt để đảm bảo cho hoạt động của HS đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Bước 4. Thực hiện khâu chuẩn bị trước khi tiến hành tiết luyện nói: Trước hết xin được nhấn mạnh tầm quan trọng của khâu chuẩn bị trước khi luyện nói trên lớp. Có thể nói yếu tố quyết định thành công hay thất bại của giờ luyện nói theo hướng đổi mới chính là ở khâu này. Giáo viên cần định hướng cho các em trong việc chuẩn bị thật cụ thể, rõ ràng về cả nội dung và cách thức (Chuẩn bị cái gì? Chuẩn bị như thế nào, bằng cách nào?) Cũng cần phân công cụ thể cho các đối tượng HS, nhưng chủ yếu là chỉ đạo thông qua đội ngũ tổ trưởng, nhóm trưởng, cán sự bộ môn. Bước 5. Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy- học trong tiết luyện nói: GV nên linh hoạt, thiên biến vạn hóa trong việc thiết kế các hoạt động dạy – học. Sau đây là vài đề xuất để tham khảo, vận dụng: Trò chơi 1. Hái hoa tìm ý. Có thể dùng hình thức này đối với lớp dạy có nhiều HS yếu kém, chưa thành thạo kĩ năng tạo lập kiểu văn bản đang học, chưa quen nói trước tập thể; lại ít có ( hay không có ) nhân tố tích cực ( HS khá, giỏi, lanh lợi, hoạt bát) làm nòng cốt. * Cách thực hiện: a) Khâu chuẩn bị: - Lựa chọn một bài tập (không ôm đồm nhiều về số lượng bài tập). - Thông báo bài tập đã chọn cho HS biết trước để chuẩn bị. - Định hướng cho HS bằng một số câu hỏi (để giải quyết bài tập). Những câu hỏi này được cung cấp từ trước tiết học để HS suy nghĩ, chuẩn bị lời. - Một bảng phụ - mô hình dàn ý phù hợp với bài tập - Các câu hỏi được viết trên mảnh giấy lớn, chữ to để có thể gắn với mô hình dàn ý (mỗi câu hỏi được trình bày về hình thức tựa như những bông hoa) - HS tự trình bày dàn ý vào vở soạn theo gợi ý từ các câu hỏi cho trước và tập chuẩn bị ngôn ngữ nói trước khi đến lớp. b) Trình tự tiến hành trong tiết học: - Phân lớp học thành một số nhóm - Lần lượt mời từng đối tượng HS trong các nhóm lên hái hoa và trình bày trước lớp theo hình thức tiếp sức (để tạo không khí sôi nổi, kích thích sự mạnh dạn, tự tin) - Lớp và GV lần lượt nhận xét (theo chiều hướng nhắc nhở nhưng vẫn khích lệ, nâng đỡ để tránh cho các em cảm giác xấu hổ, tự ti)về việc trình bày đối với từng câu hỏi của từng nhóm và cùng trao đổi để gắn hoa vào mô hình dàn ý. - GV sơ kết, giảng giải ngắn gọn về dàn ý và cách trình bày kiểu văn bản cần tạo lập. - HS khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài (theo dàn ý) để khắc sâu cách tạo lập kiểu văn bản đang học. - Nếu còn thời gian, tiếp tục tổ chức cho các em trình bày theo dàn ý trước nhóm (nói từng phần để tạo điều kiện cho nhiều HS được trình bày). Trò chơi 2. Trò chơi thông thái Hình thức này dành cho đối tượng HS nhút nhát, tuy có khả năng viết bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin nói trước tập thể. Khi mục tiêu cụ thể của tiết dạy không đặt năng kỹ năng làm bài (tạo lập văn bản ) mà cần luyện kỹ năng ứng đáp mau lẹ, nói năng rõ ràng, mạch lạc cho HS thì hình thức Trò chơi thông thái sẽ phát huy tác dụng. * Cách thực hiện: a) Điều kiện: Cơ sở vật chất thuận lợi. b) Chuẩn bị: - GV phải chuẩn bị thật công phu + Nhiều câu hỏi, bài tập ngắn gọn, bổ ích. + Tranh ảnh, vật dụng phong phú, giàu ý nghĩa. + Cách dẫn chương trình hấp dẫn, sáng tạo. Có thể vận động HS cùng chuẩn bị như sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, soạn thảo câu hỏi- đáp án Có thể chuẩn bị vài phần quà nho nhỏ giúp trò chơi thêm hào hứng. HS được thông báo giới hạn một số đề tài chính để nghiên cứu, suy nghĩ trước. c) Trình tự thực hiện trong tiết học: - Chia cuộc chơi thành 2-3 chặng. Lượng câu hỏi, bài tập được sắp xếp vào từng chặng cho phù hợp. - Sau mỗi chặng, có nhận xét và đổi người tham gia chơi. - GV trực tiếp làm giám khảo và cho điểm theo một thang điểm đã được thống nhất và công bố; cử HS làm thư ký theo dõi và tổng kết điểm ở từng chặng, cả đợt. - Cuối cùng GV tổng kết, củng cố phương pháp tạo lập VB. Nhận xét các đội chơi, khen thưởng và trao quà. Khi đã thuần thục với cách làm trên thì lớp có thể “tự biên tự diễn” mà GV chỉ là người định hướng từ xa chứ không cần tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động của HS. Trò chơi 3. Dàn hợp xướng - Đây là một hình thức có thể giúp cho các đối tượng HS cùng bổ trợ cho nhau trong quá trình thực hành kỹ năng nói về một vấn đề nào đó. - Tạo cho HS khả năng làm việc tập thể, biết phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, biết đoàn kết, hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ. - Hoạt động diễn ra chủ yếu dựa trên cơ sở đơn vị nhóm. Nhóm trưởng giữ vai trò đặc biệt quan trọng (tựa như người nhạc trưởng một dàn nhạc) trong việc điều hành nhóm. * Cách thực hiện: a) Chuẩn bị: - Phân nhóm, lựa chọn nhóm trưởng. - Thông báo về số lượng nội dung bài tập thực hành; cho các nhóm nhận bài tập cụ thể. - Hướng dẫn các nhóm chuẩn bị bài tập (chủ yếu thông qua nhóm trưởng) - Các nhóm HS lên chương trình tập luyện và chuẩn bị: làm dàn ý, sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, phân công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm b) Trình tự tiến hành trong tiết học: - Mỗi nhóm trình bày trước lớp về vấn đề đã chuẩn bị dưới sự điều hành của nhóm trưởng. Có thể theo trình tự sau: + Lời chào và lời tự giới thiệu về nhóm và nội dung sẽ trình bày + Giới thiệu dàn ý + Lần lượt trình bày từng phần theo dàn ý ( theo nhiều hình thức sáng tạo khác nhau). + Lời chào kết thúc, lời cảm ơn. Lớp và GV lần lượt nhận xét về phần trình bày của từng nhóm. GV nhấn mạnh lại cách tạo lập của kiểu VB đang học. - HS khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài để khắc sâu kiểu VB và kỹ năng nói về kiểu VB ấy. c) Lưu ý: Hình thức Dàn hợp xướng có tác dụng rất tốt nhưng khó thực hiện vì nếu chuẩn bị không kỹ hoặc Nhạc trưởng kém năng lực thì chương trình của nhóm dễ bị rời rạc, thậm chí thất bại. Do đó, khâu chuẩn bị phải được đầu tư chu đáo. Nếu HS đã chuẩn bị kỹ nhưng khi thực hành vẫn gặp khó khăn thì GV nên nhẹ nhàng gỡ bí và dẫn dắt, giúp các em hoàn thành chương trình của nhóm. Mặt khác cũng không nên yêu cầu quá cao, nhất là khi thực hiện hình thức này lần đầu. Trò chơi 4. Thi nói nhanh (Thi hùng biện, thi kể chuyện,) Hoạt động thực hành này vẫn dựa trên cơ sở gợi ý của SGV. Nghĩa là HS luyện nói ở tổ, nhóm; sau đó nói trước lớp trên cơ sở đã chuẩn bị dàn ý và tập nói ở nhà. Nhưng có thể thay đổi ở chỗ là cơ cấu việc luyện nói ấy thành một cuộc thi để tạo không khí sôi nổâi, lôi cuốn HS. Nên tổ chức hình thức Thi nói hay đối với những lớp khá, HS mạnh dạn, hoạt bát. Mục tiêu cụ thể của tiết dạy khi dùng hình thức này là luyện cho HS khả năng nói đúng, nói hay, nói truyền cảm trước tập thể về một vấn đề. * Cách thực hiện: a) Chuẩn bị: - Bảng phụ (tính điểm) - Thông báo số lượng bài tập, nội dung BT. - Thông báo hình thức hoạt động để HS tập luyện. - Các nhóm chuẩn bị dàn ý, phiếu học tập của nhóm - HS chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng liên quan (nếu cần) - Có thể chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng - Chuẩn bị vài mòn quà nho nhỏ. - Có thể chọn HS dẫn chương trình. b) Trình tự thực hiện trong tiết học: - GV nêu tiêu chí, yêu cầu, thang điểm -Thi vòng 1: HS nói trong nhóm. Nhóm chọn ra người Nói hay để dự thi vòng 2. - Thi vòng 2: Tranh tài Nói hay giữa các nhóm - Sau mỗi phần tranh tài của một nhóm là có phần nhận xét và bình điểm của lớp, GV. - Kết thúc cuộc thi: Công bố điểm, chọn giải nhất, nhì và trao quà. - Tổng kết tiết học, rút kinh nghiệm. Trò chơi 4. Đóng vai, nhập cuộc - Hình thức hoạt động này chủ yếu dựa trên cơ cở của DÀN HỢP XƯỚNG nhưng có yêu cầu cao hơn nhiều . HS cần có khả năng sáng tạo, kỹ năng tổ chức rất cao để dàn dựng “kịch bản” và tham gia “diễn xuất”. - GV cần định hướng cho HS khâu dựng “kịch bản” và đóng vai trò “đạo diễn” cho sự “diễn xuất” của các em. - Nên áp dụng hình thức này cho những lớp có HS khá, giỏi để các em đó làm “đầu tàu” trong quá trình thực hiện. - Nếu tổ chức tốt thì đây là hình thức rất hấp dẫn, lôi cuốn HS. - Lưu ý: Cần khéo léo khi sử dụng hình thức này để tránh làm phá vỡ đặc trưng của kiểu văn bản cần tạo lập. * Cách thực hiện: a) Chuẩn bị: - GV thông báo nội dung bài tập ( sau khi đã trao đổi, thống nhất với HS nòng cốt). - Gợi ý, định hướng cho HS dựng “ kịch bản”, phối luyện để diễn xuất. - Giới thiệu tư liệu, chương trình để HS tham khảo. - Các tổ, nhóm thực hiện việc chuẩn bị theo sự hướng dẫn của GV . b) Trình tự thực hiện : - Tương tự như DÀN HỢP XƯỚNG Chỉ khác ở chỗ các thành viên tham gia đã hoàn toàn đóng vai nhập cuộc để trình bày chứ không cần sự giới thiệu lần lượt của người điều khiển. 3. Đánh giá về sáng kiến tạo ra. a) Tính mới Những trò chơi đưa ra áp dụng trong giờ luyện nói có thể nói phát huy đầy đủ tính tích cực của học sinh, nhằm hướng tới lấy học sinh làm trung tâm. Ngoài ra, khi giáo viên tổ chức các hoạt động trò chơi trong tiết luyện nói giúp các em hứng thú trong tiết học văn, biến giờ luyện nói nhàm chán trước đây thành tiết học mới lạ, hứng thú và học sinh tích cực tham gia. Có rất nhiều trò chơi được áp dụng trong giờ ngữ văn nhưng giờ luyện nói theo hướng tôi đưa ra có thể nói rất ít được áp dụng. Đó chính là tính mới của sáng kiến kinh nghiệm. Tạo tâm thế thỏa mái cho học sinh tiếp nhận giờ học, để phát triển tốt nhất năng lực học sinh đi theo hướng thay đổi phương pháp giảng dạy phù hợp với xu thế đổi mới, tránh nhàm chán cho học sinh. b) Hiệu quả áp dụng Qua việc phát phiếu khảo sát về một số giải pháp đã thực hiện trong bộ môn ngữ văn ở bậc trung học cơ sở bản thân tôi nhận thấy các em học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt, các em yêu thích môn học này hơn cụ thể là các em tích cực, tự giác chuẩn bị bài nói và có hứng thú hơn với tiết học luyện nói. Các em đã có sự xúc động trước cảnh đẹp của quê hương đất nước, lịch sử và con người. Đã có những ý kiến cá nhân, nêu những điều các em suy nghĩ chứ không bị áp đặt như trước nữa. Học sinh biết cách hoạt động cá nhân khi giáo viên yêu cầu. Các kĩ năng: kĩ năng thuyết trình sử dụng và tìm kiếm thông tin sẽ được hình thành khi các em tham gia hoạt động khởi động trong tiết luyện nói. Kết quả trước và sau khi thực hiện SKKN như sau : Trước khi chưa thực hiện: Đầu năm học 2022 – 2023 - Trong các giờ luyện nói : Lớp Sĩ số Tham gia thực hành luyện nói Chủ động chuẩn bị bài 7A 39 2 12 7B 44 3 15 Sau khi thực hiện : học kì 2 năm học 2022-2023 Lớp Sĩ số Tham gia thực hành luyện nói Chủ động chuẩn bị bài 7A 39 21 28 7B 44 29 39 Khi áp dụng các trò chơi trong giờ luyện nói cũng giúp ban cán sự lớp thao tác công việc quản lớp, vận hành trò chơi thành thạo hơn. Học sinh tự tin trình bày ý kiến của mình. Có một số em còn rụt rè nhưng cũng đã bước đầu trình bày ngắn gọn ý kiến của bản thân, làm quen với kĩ năng nói trước đám đông. Mà kĩ năng nếu và phát biểu ý kiến là kĩ năng cơ bản trong đời sống xã hội hiện nay giúp các em thêm hành trang tốt trên con đường vào đời. c) Khả năng áp dụng của sáng kiến Sau khi áp dụng đề tài này vào các tiết dạy, tôi đã thấy một kết quả khả quan thực sự: Học sinh tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tiết luyện nói, các em chủ động soạn bài, hứng thú hơn trong giờ học và đặc biệt tạo cho các em cảm giác thoải mái sau những tiết học căng thẳng khác. Tuy nhiên để đề tài này đạt được hiệu quả cao nhất trong việc giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải tích cực, sáng tạo trong dạy học, đổi mới tư duy dạy học là việc làm rất cần thiết trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học. Sáng kiến này có thể áp dụng ở tất cả các trường học trên toàn quốc chỉ cần giáo viên chuẩn bị tốt khâu dặn dò học sinh và thực hành học sinh luyện tập. III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng sáng kiến Trước tình hình các em học sinh không ham thích học văn việc gây hứng thú trong giờ học ngữ văn là rất quan trọng. Để đạt được kết quả như mong đợi cần phải có thời gian, trước mắt khi áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới đòi hỏi người giáo viên ngoài việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo còn phải uy nghĩ tìm biện pháp thích hợp cho từng tiết dạy lấy phương châm: “Lấy học sinh làm trung tâm” Việc gây hứng thú trong giờ dạy bước đầu cả giáo viên và học sinh đều phải làm việc tích cực, thời gian chuẩn bị bài nhiều hơn, học sinh phải hoạt động trong giờ học, sẽ có những thiếu sót, vấp váp, e ngại lúc mới áp dụng khi học sinh phải đi từ cách học thụ động nghe giảng, ghi chép sang cách học tích cực phát biểu ý kiến, tham gia thảo luận, dự các trò chơi. Tuy nhiên với bản tính ham học hỏi, thích thú với việc được tôn trọng, hấp dẫn bởi vừa học vừa chơi. Bên cạnh sự nhiệt tình tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Người viết tin tưởng rằng những biện pháp đã nêu sẽ thành công tốt đẹp trong giờ dạy ngữ văn THCS. 2. Những kiến nghị, đề xuất điều kiện để triển khai, ứng dụng sáng kiến vào thực tiễn Sau khi áp dụng đề tài này vào các tiết dạy, tôi đã thấy một kết quả khả quan thực sự: Học sinh có hứng thú hơn trong tiết luyện nói, không còn thụ động chuản bị bài lên đọc như trước nữa, đặc biệt tạo cho các em cảm giác thoải mái sau những tiết học căng thẳng khác. Tuy nhiên để đề tài này đạt được hiệu quả cao nhất trong việc giảng dạy ở các trường học thì cần phải có sự phối kết hợp của tất cả giáo viên văn cùng áp dụng tất cả các khối. Và cần có nhiều chuyên đề của chuyên môn đi sâu nghiên cứu hơn nữa về tiết luyện nói để cải thiệt tiết luyện nói ngày một gây hứng thú hơn với học sinh. Do khả năng bản thân có hạn nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quí đồng nghiệp đóng góp ý kiến để sáng kiến được áp dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy.
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_ren_ki_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_7_tro.docx