SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận Văn học trong chương trình Ngữ Văn 9

Dạy văn nói chung, dạy phân môn tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học nói riêng ở khối lớp 9 trường Trung học cơ sở là dạy cho các em học sinh lứa tuổi 14, 15 - lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, năng động và nhạy cảm… biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ thuật. Tác phẩm văn chương nghệ thuật là thành quả sáng tạo của nhà văn, nhà thơ . Mỗi tác phẩm văn thơ đều thuộc một thời kì văn học nhất định, có thể cách xa thời đại mà các em sống hiện nay cả hàng thế kỉ, hàng thập niên ... Tác phẩm văn chương dù nhỏ nhất, là một câu tục ngữ, một bài ca dao, hay lớn hơn là một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ không hề đơn giản của người giáo viên dạy Ngữ văn.

Lep- Tôn-xTôi nói : “Vấn đề không phải là biết quả đất tròn mà là làm thế nào để biết được quả đất tròn?” Chân lí là quý báu ! Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý báu hơn nhiều. Vì thế, cái khó trong việc dạy văn, nhất là dạy Tập làm văn kiểu bài Nghị luận văn học là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm, làm sao để các em biết tự lực viết được bài văn theo hiểu biết và cảm nhận của mình. Thiết nghĩ, đây là mục đích và cũng là trăn trở chung của những người dạy văn.

Bản thân là giáo viên nhiều năm dạy khối lớp 9, tôi luôn tâm đắc câu nói của dân gian : “Đừng cho cá mà hãy cho cần câu”. Nếu ví bộ cần câu là phương pháp và con cá là kiến thức, bài văn mẫu thì sự đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động dạy, học của giáo viên và học sinh là sự tìm tòi và sáng tạo. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn trăn trở, tìm cách để dạy thật có hiệu quả mỗi kiểu bài, mỗi giờ lên lớp. Trong đó, tôi đặc biệt quan tâm đến kiểu bài Nghị luận nói chung và Nghị luận văn học nói riêng.

Trong chương trình Ngữ văn ở bậc Trung học cơ sở, học sinh đã học về thể văn nghị luận. Ở lớp 7 các em học được phép lập luận chứng minh và phép lập luận giải thích. Lớp 8 học tiếp khá kĩ về văn nghị luận, về cách nói và viết bài văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Ở lớp 9 đã có sự kế thừa, nâng cao kiến thức về văn nghị luận; các em học về nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ hay nghị luận về một tư tưởng đạo lý, nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.

Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9 khi cho các em viết các bài nghị luận văn học ở lớp, rồi làm bài kiểm tra học kì, thi tuyển vào lớp 10 ở môn ngữ văn nhiều năm qua, học sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học còn rất nhiều hạn chế. Bài làm thường sơ sài, chung chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dòng là hết, có nhiều em không biết mở bài, không biết xây dựng luận điểm… Thực trạng ấy làm cho đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải trăn trở, phải suy nghĩ, mà nguyên nhân chính là học sinh không có kĩ năng viết bài, không có định hướng khi làm bài nghị luận văn học. Do đó chúng ta cần phải có cách dạy như thế nào? học sinh cần phải có cách học như thế nào để mang lại kết quả cao trong dạy học đó là vấn đề mà thầy cô giáo cần phải quan tâm và chú trọng. Điều đó thực sự thôi thúc tôi trăn trở, tìm tòi và đã đưa ra một số giải pháp trong sáng kiến kinh nghiệm này: “Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học trong chương trình Ngữ văn 9”.

doc 17 trang Trang Lê 17/08/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận Văn học trong chương trình Ngữ Văn 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận Văn học trong chương trình Ngữ Văn 9

SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận Văn học trong chương trình Ngữ Văn 9
 người rất khiêm tốn. (2) Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh, anh hào hứng giới thiệu về những con người đáng để vẽ hơn mình. (3) Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân, là anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập bản đồ rét. (4) Anh thấy đóng góp của mình bình thường nhỏ bé so với những con người ấy. (5) Anh thấy thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người ngày đêm làm việc lo nghĩ cho đất nước ở nơi mảnh đất nghĩa tình Sa Pa này.
Như vậy: 	Câu (1) là câu chủ đề, chứa luận điểm
	 Câu (2) là câu chuyển để đưa dẫn chứng
	 Câu (3), (4), (5) là dẫn chứng và là những câu phân tích, nhận xét từ dẫn chứng của người viết.
Cái khó là học sinh không biết phân tích, nhận xét nên giáo viên cho học sinh đặt câu hỏi để trả lời, như: Vì sao anh lại giới thiệu những con người khác ở Sa Pa? Anh nghĩ điều gì mà giới thiệu như vậy? Học sinh trả lời đúng, nghĩa là học sinh đã biết nhận xét, đánh giá.
Quy nạp là cách trình bày ngược với cách diễn dịch. Giới thiệu cách quy nạp để học sinh biết và viết đúng nhằm thay đổi thao tác lập luận trong khi làm bài.
Học sinh xác định được đặc điểm, tính cách của nhân vật theo trình tự diễn biến của truyện thì học sinh lần lượt viết được đoạn văn ở phần thân bài.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ :
Đầu tiên, giáo viên phải hình thành cho học sinh quy trình xây dựng đoạn khi phân tích một đoạn thơ, khổ thơ như sau:
(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này gọi là câu dẫn) -> (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ -> (3) Giảng giải, cắt nghĩa (từ, ngữ, câu thơ) -> (4) Liên hệ, mở rộng, so sánh -> (5) Nhận xét cách sử dụng nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, mà ở đó, cái ý nghĩa độc đáo, tài năng nghệ thuật của tác giả được bộc lộ - lựa chọn chi tiết không dàn trải) -> (6) Nhận xét, đánh giá về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ (phần này có thể về cảnh, về tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trực tiếp hoặc nhân vật trữ tình nhập vai).
Các câu (1), (2), (5), (6) thường bắt buộc phải có khi phân tích. Câu (3), (4) tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện. Riêng câu (4) học sinh khá, giỏi thường dùng để mở rộng ý.
Ví dụ 1 : Phân tích khổ thơ: 
	 “Ta làm con chim hót
	Ta làm một cành hoa
	Ta nhập vào hòa ca
	Một nốt trầm xao xuyến”
 (Thanh Hải - Mùa xuân nho nhỏ)
Viết đoạn: 
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã có ước nguyện chân thành: 
 (2) “Ta làm con chim hót
	Ta làm một cành hoa
	Ta nhập vào hòa ca
	Một nốt trầm xao xuyến”
(3) Nhà thơ muốn làm con chim hót để làm vui cho cuộc đời, muốn làm một cành hoa để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm làm đẹp cuộc đời, muốn làm một nốt trầm trong bản hòa ca để làm tăng ý nghĩa cuộc đời. (4) Nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim để nói lên ước nguyện của mình. Những hình ảnh ấy được lặp lại, trở lại mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến có ích cho đời. Cũng trong thời gian này, nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Một khúc xuân” những suy ngẫm tương tự:
	 Nếu là con chim, chiếc lá
 	Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
 Lẽ nào vay mà không trả
 Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn nhân sinh quan - vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng - một cách thiết tha, nhỏ nhẹ, khiêm nhường được thể hiện qua những hình tượng đơn sơ mà chứa đựng nhiều xúc cảm.
(4’) Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, nhà thơ xưng tôi  “Tôi đưa tay tôi hứng” thì giờ đây, tác giả đã chuyển sang ta. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Với chữ ta vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cá thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. (5) Cách sử dụng điệp ngữ “ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết, chân thành. (6) Nhà thơ có một ước nguyện nhỏ bé, một phương châm sống thật cao đẹp được hòa nhập và cống hiến cho đời.
Từ đoạn văn trên, học sinh sẽ nhận thấy rõ quy trình (có thể coi là một công thức cơ bản):
Câu (1) nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
Câu (2) dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
Câu (3) giảng giải, cắt nghĩa.
Câu (4), (4’) là liên hệ, mở rộng, so sánh.
Câu (5) là nhận xét cách sử dụng nghệ thuật.
Câu (6) là nhận xét, đánh giá về nội dung.
Đối với học sinh yếu thì không thể thực hiện những câu (4), (4’) mà dành cho học sinh khá, giỏi. Khi học sinh đã quen thì hướng dẫn cho đối tượng trung bình, yếu thực hiện những câu (4), (4’).
Ví dụ 2: Phân tích các câu thơ sau:
Chân phải bước tới cha
 Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
 (Y Phương - Nói với con)
Viết đoạn : Những câu thơ mở đầu đã thể hiện tình yêu thương của cha mẹ đối với con :
Chân phải bước tới cha
 Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Những hình ảnh cụ thể về một em bé đang tập đi, tập nói. Lúc thì bước tới níu lấy tay cha, lúc thì sà vào lòng mẹ. Điệp ngữ “bước tới” gợi bước chân chập chững của đứa con, sự mong chờ, vui mừng đón nhận của đôi vợ chồng trẻ. Nhà thơ đã tạo một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc.
Ví dụ 3 : Phân tích khổ thơ :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
 (Nguyễn Duy – Ánh trăng)
Viết đoạn: Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:
	 Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, tròn đầy, một vẻ đẹp viên mãn. “im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình”. “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, trượng trưng cho sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn. “ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh nhân hóa, chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta). Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn luôn tròn đầy, bất diệt.
c. Ví dụ minh họa phần kết bài
Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài. Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man hay lặp lại ý đã diễn giải, minh hoạ ,cụ thể, chi tiết ở thân bài. Cũng không nên lặp lại nguyên văn lời lẽ của phần mở bài . Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá, tổng kết vấn đề.
Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết. Có khi kết bài là tóm tắt , khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tác giả, tác phẩm. Có khi kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan. 
Thế nên, để hướng dẫn học sinh viết được những kết bài sâu sắc, người dạy cần phải giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài. Kết bài không chỉ là khép lại, hoàn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao về mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp 
Theo sách giáo khoa phần kết bài ở mỗi kiểu bài như sau:
Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích): Nhận định đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ bài thơ. 
Phần này giáo viên chuyển thành cụ thể hơn để học sinh dễ hiểu:
- Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
+ Nêu những nhận định đánh giá chung về: bút pháp xây dựng nhân vật, ảnh hưởng của nhân vật đối với người đọc.
+ Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật.
+ Cần nói đến vai trò, vị trí của nhân vật trong tác phẩm, và tùy trường hợp, có thể nói rõ tác giả đã đóng góp được những gì về tư tưởng, về nghệ thuật trong quá trình phát triển của văn học một thời kì (ý này dành cho học sinh khá, giỏi).
Ví dụ: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
Truyện Những ngôi sao xa xôi đã thành công về cách kể chuyện, đặc biệt là nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. Truyện đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Những “ngôi sao” ấy luôn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ, biết ơn.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ: 
+ Khái quát giá trị, ý nghĩa: có thể về nghệ thuật, nội dung hoặc vị trí của đoạn thơ, bài thơ trong dòng văn học ấy.
+ Hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Những nội dung trong phần kết bài chỉ là định hướng, không bắt buộc phải trình bày đầy đủ khi viết bài. Giáo viên lưu ý cho học sinh, khi hết giờ làm bài có thể trình bày ngắn gọn về cảm nhận của mình về nhân vật (đoạn thơ, bài thơ) cũng được.
Ví dụ: 
- Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã gợi lên trong lòng người đọc về vẻ đẹp và ý nghĩa của những công việc thầm lặng, cống hiến sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Thơ ca Việt Nam có những câu thơ, bài thơ hay viết về mùa thu. Đến lượt mình, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có một hương sắc mới.
Qua quá trình áp dụng sáng kiến này, mặc dù một số bài làm của học sinh vẫn còn yếu, tuy nhiên đa số các em học sinh đã có kỹ năng làm bài nghị luận văn học và đã biết chọn lọc tư liệu giá trị, vận dụng sáng tạo những tư liệu để biến thành cách diễn đạt riêng cho bản thân mình. Chất lượng bài viết của các em đã có sự chuyển biến rõ rệt. Sau đây là kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến:
Lớp
SLHS
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
33
4
12,2
13
39,4
14
42,4
2
6,1
 3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến 
Sáng kiến đã giải quyết được những băn khoăn, trăn trở của tôi khi dạy văn nghị luận văn học lớp 9. 
Tạo cho các em niềm say mê trong môn học từ trừu tượng, ngại nghĩ, ngại viết, các em đã biết cảm nhận, phân tích, suy nghĩ một tác phẩm văn học.
Giúp cho các em học sinh lớp 9 từ việc các em nghĩ sao viết vậy thì đã biết phân tích mệnh đề, lập dàn ý sơ lược, dàn ý chi tiết, sắp xếp bố cục rõ ràng, xây dựng được một bài văn nghị luận văn học hoàn chỉnh làm cho chất lượng bộ môn tăng lên rõ rệt.
Trong giảng dạy, bên cạnh việc giúp học sinh nắm bắt kiến thức trọng tâm của bài học thì việc rèn luyện kĩ năng sẽ giúp các em có định hướng trong việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học và tạo lập văn bản khi thực hành. Cho nên việc hướng dẫn học sinh cách làm văn nghị luận về tác phẩm văn học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng được chuẩn kiến thức và kĩ năng trong phương pháp dạy học mới hiện nay.
Kinh nghiệm trên là kết quả từ thực tế khi hướng dẫn học sinh trong giảng dạy và tiếp tục hướng dẫn học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận. Kinh nghiệm đã giúp học sinh có kĩ năng làm bài, phần nào gỡ bí cho học sinh nhất là đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống, đã từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn. 
Sáng kiến được áp dụng đã phần nào đơn giản hóa, cụ thể hóa khi dạy dạng văn nghị luận văn học. Từ đó mà giáo viên có những định hướng đúng đắn, giúp các em nắm được phương pháp làm bài và có được những bài văn nghị luận hay, độc đáo .
3.2. Những kiến nghị, đề xuất 
- Đối với giáo viên:
 + Phải có tâm huyết với nghề, tạo hứng thú cho học sinh bằng kinh nghiệm chuyên môn, tình cảm đối với bộ môn và cả sự yêu mến học sinh để mỗi giờ học trôi qua một cách thoải mái, nhẹ nhàng, đồng thời mở ra sự tò mò mong đợi những giờ học tiếp theo.
+ Nghiên cứu SGK, SGV, tài liệu tham khảo và các tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung bài học.
+ Có ý thức học hỏi đồng nghiệp, tự giác tìm tòi, học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
+ Đẩy mạnh việc đổi mới hoạt động dạy học trên lớp, giáo viên là người chỉ đạo hướng dẫn, học sinh là người chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức.
+ Chú trọng việc củng cố và phát triển ở học sinh các kỹ năng: Kỹ năng phân tích đề, tìm ý, kỹ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá, kỹ năng dựng đoạn, liên kết đoạn...
+ Có thái độ gần gũi, cởi mở, thân thiện đối với học sinh, biết khen thưởng và động viên kịp thời, phê bình một cách tế nhị để giúp học sinh tự tin và tự nhiên hơn trong hoạt động học tập, hạn chế tính tự ti, lười hoạt động ở một số học sinh yếu.
+ Thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài tập, chuẩn bị bài mới của học sinh, quan tâm nhiều hơn đến học sinh yếu kém và có những biện pháp khắc phục kịp thời.
- Đối với học sinh
+ Có say mê, hứng thú học tập môn ngữ văn nói chung và kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện nói riêng.
+ Có đầy đủ các phương tiện học tập như: SGK, vở bài tập, vở nháp
+ Đổi mới trong suy nghĩ, trong cách học, phải tự giác học, chủ động, sáng tạo, có ý thức trách nhiệm về hoạt động học tập của mình, không qua loa, chiếu lệ, không thụ động...
+ Xác định rõ mục đích, yêu cầu của giờ học, không chỉ về kiến thức mà còn về cả kỹ năng thự hành.
Đối với thi sĩ, sáng tác được một câu thơ, một bài thơ hay là niềm hạnh phúc. Còn đối với người giáo viên dạy Ngữ văn, việc nghiền ngẫm, trao đổi với nhau qua bao tháng năm trên bục giảng để hiểu được đúng, thấm được sâu từng trang truyện, từng nhân vật, từng yếu tố nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà nhà văn muốn gửi gắm vào đó một lời nhắn nhủ, một tư tưởng tình cảm mới mẻ, tốt đẹp . là nguồn vui lớn, say mê với đời, với sự nghiệp dạy Văn. Và đối với tôi, việc tích luỹ một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinh cách làm tốt bài văn Nghị luận văn học là điều tôi tâm đắc.
Giảng dạy văn nói chung , giảng dạy Tập làm văn nói riêng quả là một điều không dễ nhất là phần Nghị luận văn học. Người giáo viên là người đóng vai trò tổ chức hướng dẫn các hoạt động học cho học sinh cho nên đòi hỏi ngoài kiến thức chuyên môn, ngoài nhiệt tình nghề nghiệp còn đòi hỏi một năng lực sư phạm thực sự. Mà tất cả những yếu tố đó phải đặt trong tính định hướng chung của chương trình của phương pháp và mục tiêu môn học, bài học cụ thể. Đó là những điểm luôn luôn gắn kết, hoà quyện không thể tách rời.
Trên đây là những thử nghiệm nhỏ của bản thân tôi về một số phương pháp rèn kỹ năng viết bài nghị luận văn học cho học sinh lớp 9. Có thể những suy nghĩ của tôi không tránh khỏi chủ quan khiếm khuyết, vẫn còn không ít thiếu sót và vụng về trong cách trình bày, diễn đạt  nhưng tôi xin gởi trọn niềm tin yêu vào những gì mình đã viết, đã đúc kết vào kinh nghiệm này. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, các anh chị đi trước và bạn bè đồng nghiệp. 
Tôi xin chân thành cảm ơn !

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_ren_ky_nang_lam_bai_van_nghi_luan_van.doc