SKKN Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ Văn 6 ở Trường THCS Mai Thủy

Môn Ngữ văn trong nhà trường THCS có một vị trí rất quan trọng. Nó cung cấp cho các em những hiểu biết cơ bản về tác phẩm văn học, bồi dưỡng cho các em những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, rèn luyện cho các em lối tư duy khoa học, sự suy nghĩ, chủ động sáng tạo trong cuộc sống cũng như trong học tập. Trên lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã và đang được đề cập và bình luận sôi nổi. Điều đổi mới quan trọng nhất là trong giờ học, học sinh đóng vai trò chủ động, giáo viên đóng vai trò chủ đạo, có nghĩa là học sinh phải chủ động, tích cực sáng tạo để tự tìm kiếm và nắm bắt kiến thức; giáo viên là người giúp đỡ, hướng dẫn, gợi mở cho học sinh. Để đạt được mục đích hoạt động đổi mới của phương pháp dạy học môn Ngữ văn, bản thân người giáo viên phải tự tìm tòi phương pháp thích hợp nhằm gây hứng thú cho học sinh. Các em chỉ thực sự nắm vững cái mà chính các em đã dành được bằng hoạt động của bản thân mình. Bởi hiện nay, học sinh có xu hướng xem nhẹ việc học những môn xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng. Những bài thơ hay, những câu chuyện bổ ích không dễ gì đi vào lòng người. Các em không say mê yêu thích học Văn và việc các em “xin” tham gia vào đội tuyển HSG Văn lại càng “hiếm”. Chính vì thế lại càng đòi hỏi người giáo viên – giáo viên Ngữ văn phải có phương pháp dạy học cũng như kiểm tra đánh giá có hiệu quả để các em có niềm yêu thích, đam mê, ý thức tốt với môn học, có kĩ năng làm một bài văn ở mỗi thể loại.

Vậy làm thế nào để học sinh say mê, hứng thú trong giờ học Ngữ văn nói chung và trong công tác bồi dưỡng HSG Ngữ văn nói riêng? Làm thế nào để phát huy được sự chủ động, sáng tạo của học sinh trong các giờ học bồi dưỡng? Thực hiện được vấn đề này quả không đơn giản, nó đòi hỏi mỗi giáo viên dạy văn phải mất nhiều thời gian và công sức tìm tòi sáng tạo cho mỗi giờ lên lớp. Xuất phát từ thực tế trên, tôi xin trình bày SKKN "Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ văn 6 ở trường THCS", xin được trao đổi một vài kinh nghiệm của cá nhân để tìm ra phương pháp giảng dạy bồi dưỡng tối ưu nhằm đạt hiệu quả trong sự nghiệp trồng người của giáo dục huyện nhà.

Điểm mới của đề tài: Văn chương là phương tiện cơ bản để con người đi đến thành công trong cuộc sống, thành công trong các lĩnh vực khoa học. Vì đó là môn học để am hiểu, trình bày những kiến thức khoa học, giúp người học nâng cao cảm xúc thẩm mỹ, hướng đến lẽ sống cao đẹp. Thông qua những hình tượng văn học sẽ giúp ta yêu cái thiện, ghét cái ác, trân trọng cái cao cả, khinh bỉ cái thấp hèn.

doc 14 trang Trang Lê 20/07/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ Văn 6 ở Trường THCS Mai Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ Văn 6 ở Trường THCS Mai Thủy

SKKN Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ Văn 6 ở Trường THCS Mai Thủy
ô.
Qua đó hiểu được nguyên vọng của các em để xây dựng nội quy phù hợp. Các ý kiến đóng góp, thể hiện nhu cầu chính đáng sẽ được tiếp thu, thảo luận. Sau đó từng cá nhân sẽ đưa ra ý kiến rồi thống nhất và đưa ra ý kiến của nhóm. Đây là ý kiến chung được nhóm đồng ý, tán thưởng cũng như mong muốn được thực hiện.
- Bước 2: Các nhóm chia sẻ ý kiến và thống nhất ý tưởng:
+ Từng nhóm chia sẻ ý kiến của nhóm mình cho cả lớp nghe.
+ Tổng hợp các ý kiến lên bảng theo hướng xây dựng, mong muốn trong nội quy chung.
+ Cả lớp góp ý, điều chỉnh, nhất trí ý kiến chung về các điều mọi người mong muốn để lớp được quản lý tốt hơn.
Giáo viên sẽ tổng hợp lại ý kiến của các nhóm và đưa ra những nội dung cần có trong nội quy lớp học đã được các nhóm thảo luận đưa ra. Trên tinh thần quản lý và dẫn dắt, giáo viên phải định hướng trong nhu cầu tiếp cận nội quy.
- Bước 3: Thống nhất về nội quy lớp học:
Giáo viên cho cả lớp thảo luận chung về nội quy lớp học đã đưa ra; Việc thống nhất này giúp chọn lọc các ý, khía cạnh cần quy định trong nội quy. Học sinh viết ra những nguyên tắc mà các em cảm thấy quan trọng và cần thiết phải có để xây dựng nội quy lớp học. Đây là bước chọn lọc để có được nội quy thống nhất, bao quát cũng như cụ thể nhất.
- Bước 4: Cam kết thực hiện nội quy lớp học:
Tất cả mọi học sinh trong lớp cam kết thực hiện đúng nội quy đã đặt ra. Sau khi nội quy đã được tổng hợp và chọn lọc mang đến sự hoàn chỉnh.
+ Nếu học sinh không tuân thủ nội quy của lớp học điều gì sẽ xảy ra? Nếu tất cả mọi người tuân thủ nội quy lớp học, điều gì sẽ xảy ra?
+ Tại sao mỗi cá nhân cần biết chấp hành “kỉ luật” mà giáo viên đưa ra?
Ngược lại, nếu tất cả các học sinh đều tuân thủ các nội quy của lớp thì đó chắc chắn là một tập thể đoàn kết, luôn có ý thức đưa phong trào lớp đi lên, cùng nhau giúp đỡ học tập và cùng nhau tiến bộ.
Tôi xin trích dẫn một số điều trong nội quy lớp bồi dưỡng của tôi giảng dạy:
1. Tôn trọng, đoàn kết, giúp đỡ nhau, nói lời hay, làm việc tốt và thực hiện nếp sống văn minh.
2. Thi đua học tốt: Đi học đúng giờ; học bài và làm bài đầy đủ...
3. Cá nhân thực hiện tốt sẽ được khen thưởng, nếu vi phạm nội quy sẽ bị xử lí theo các mức độ của lớp đưa ra.
2.2.3. Tạo hứng thú học tập bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt
Tổ chức trò chơi học tập
Trong thực tế dạy học trên lớp nói chung và dạy bồi dưỡng HSG nói riêng, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, tác động đến sự phát triển trí tuệ của các em.   
Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học, phải là một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi, khi mọi thứ đều thật, chẳng hạn trong môn Tiếng Việt, từ vẫn là từ, câu vẫn là câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn là thầy... trò chơi sẽ bớt phần thú vị. Trò chơi cuốn hút trẻ em hơn nếu có được sự giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình huống đến kết quả chơi. Giáo viên hoặc học sinh là người thiết kế trò chơi nhưng nội dung trò chơi phải liên quan đến bài học, có thể trò chơi để kiểm tra kiến thức đã học, trò chơi để hình thành bài mới, trò chơi của phần bài tập hay trò chơi để củng cố kiến thức. 
Ví dụ nhóm trò chơi: Trong vườn cổ tích đã khai thác tính giả định của trò chơi từ nguồn văn bản truyện cổ. Khi đó, trò chơi vừa minh họa sinh động kiến thức, kỹ năng tiếng Việt, vừa tạo ra được một không khí cổ tích huyền diệu, gợi lại nội dung các văn bản truyện cổ tích mà học sinh đã học ở SGK hoặc đã được đọc, được nghe. Ví dụ, từ truyện Tấm Cám, xây dựng trò chơi Chim sẻ giúp cô Tấm dành cho các bài tập nhận diện, phân loại... Từ truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, có thể xây dựng trò chơi Dâng núi chống lụt cho những bài tập làm văn, làm giàu vốn từ...
Có thể kể vào trò chơi học tập hoạt động sắm vai. Đây là một trò chơi có rất nhiều lợi thế để dạy học Tiếng Việt. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai giao tiếp nào đó nhằm thể hiện sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập sắm vai nhiều khi rất vui nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do những “diễn viên không chuyên” tạo nên. Hình thức sắm vai đặc biệt phát huy tác dụng trong các chuyên đề tập làm văn rèn kĩ năng nói, viết, nó giúp học sinh được thực hành giao tiếp, được quan sát trực tiếp hoạt động nói với sự kết hợp sinh động của phương tiện âm thanh và các yếu tố phi ngôn ngữ.
 Tổ chức dạy học ngoài trời
Dạy học ngoài trời giúp HS tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ năng từ cuộc sống. Dạy học ngoài trời là một hình thức tổ chức dạy học có nhiều lợi thế để phát triển năng lực giao tiếp cho HS, một năng lực cần thiết cho tất cả mọi môn học.
Dạy học ngoài trời tạo điều kiện để HS quan sát thiên nhiên, chơi các trò chơi nhằm gây hứng thú, sự tích cực học tập cho các em. Tổ chức tiết học ngoài trời sẽ giúp HS tri giác trực tiếp đối tượng và ghi nhớ tốt, không phải tri giác gián tiếp qua các phương tiện dạy học. Các em có điều kiện gần gũi, hiểu biết về thiên nhiên, từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống xung quanh. Hoạt động ngoài lớp còn là cơ hội để các em bộc lộ cá tính, năng khiếu, sở trường, đồng thời có tác dụng hình thành thói quen hợp tác, tương trợ, học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, trong môn Tiếng Việt, nhiều nội dung nói viết của phân môn TLV gắn liền với môi trường địa phương, nơi HS đang sinh sống nên việc dạy học ngoài không gian lớp học lại càng quan trọng. Ví dụ dạy bài “Tả quang cảnh sân trường em” không gì thiết thực bằng việc cho các em ra sân, trực tiếp quan sát sân trường, giáo viên hướng dẫn các em quan sát, những cảnh cần tả sau đó phân nhóm học sinh ngỗi mỗi góc để quan sát và tả. 
Tạo động lực liên tục cho học sinh
Quá trình học tập, bồi dưỡng rất gian nan, vất vả, thậm chí là có lúc các em sẽ cảm thấy bế tắc. Vì vậy, việc tạo động lực liên tục cho học sinh cần được quan tâm. Để làm tốt điều này, theo tôi cần các yếu tố sau:
- Ngay từ khi vào lớp 6, thậm chí ở cấp tiểu học, các em đã xác định mục tiêu đúng đắn rằng mình là người dẫn đầu trong chính thế hệ của mình khi tham gia vào đội tuyển HSG và các em cần xây dựng “thương hiệu” cho riêng mình. Do đó, theo tôi, từ truyền thống chúng ta sẽ bồi đắp nên niềm tin và niềm tin sẽ gây dựng nên truyền thống. Các thế hệ học sinh đi trước sẽ là niềm cảm hứng cho các học sinh khóa sau
- Học sinh lớp 6 các em rất thích được khen, được tuyên dương, phần thưởng. Phần thưởng của các em có thể không thiên về vật chất mà thiên về tinh thần, tượng trưng. Chính vì nắm bắt được đặc điểm tâm lí này nên giáo viên có thể đưa ra các hình thức khen như bằng lời nói, nhận xét, bằng việc thưởng bông hoa điểm tốt, thư khen. vào cuối tuần. Tôi đã chọn cách khen từng cá nhân, nhóm bằng cho bông hoa điểm tốt mỗi lần các em trả lời hoặc làm đúng bài tập. Các em thật sự rất hứng thú, thi đua làm bài nhanh để được giáo viên gọi lên bảng thực hiện để lấy hoa về cho nhóm mình. Cuối tuần tôi sẽ tổng kết số lượng hoa điểm tốt để thưởng cho tổ bông hoa to cắm ở bảng thi đua cuối lớp. Bên cạnh đó sẽ chọn ra các bạn có sự tiến bộ, chăm ngoan học tốt để được khen, thưởng hoa nâng cao sự tự hào, tin tưởng vào bản thân mình. 
2.2.4. Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò
Người giáo viên tham gia công tác bồi dưỡng là người phải có lòng nhiệt tình say mê lăn lộn với phong trào, biết trăn trở trước những đề bài khó để tìm ra cách truyền tải hiệu quả, phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích luỹ tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo.
Để học sinh “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” người giáo viên là người có vai trò quan trọng nhất, đặc biệt là trong công tác bồi dưỡng HSG. Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Bởi vì, học là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại, mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự học. Thử nghĩ nếu các em đến trường luôn trong tâm trí nỗi sợ hãi với thầy cô, sợ bị la mắng chắc chắn sẽ không còn tâm trí để hứng thú học hành, sẽ không muốn tham gia tiếp cùng đội. Người giáo viên vừa là người giúp các em lĩnh hội kiến thức, người truyền lửa, truyền đam mê học hành cho các em và là một người bạn của các em ở trên lớp, biết chia sẻ, thấu hiểu các em có như vậy các em mới tự tin, hứng thú trong học tập.
Giữa các học sinh với nhau trong lớp bồi dưỡng cần có sự hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Các em sẽ cảm thấy lôi cuốn và hứng thú, muốn được đến lớp gặp gỡ, trao đổi cùng các bạn về kiến thức, niềm vui, khó khăn trong học tập và cuộc sống. Tôi nghĩ chính điều này sẽ mang lại hứng thú cao, hiệu quả cao trong công tác.
2.2.5. Kiểm tra kiến thức và rút ra kinh nghiệm
Đây là giai đoạn cũng rất quan trọng trong quá trình tạo hứng thú cho các em tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, bởi lẽ chúng ta chỉ dạy mà không kiểm tra thì ta sẽ không thể biết được sự tiếp thu kiến thức của các em đạt đến mức độ nào và học sinh sẽ có thêm động lực, thậm chí là sự thi đua với nhau.
Sau mỗi chuyên đề giáo viên cần cho học sinh làm một bài kiểm tra đánh giá, kết quả được lưu lại, xếp vị thứ sau mỗi lần kiểm tra. Giáo viên tổ chức thi đua trong nhóm trước (sau) khi hoàn thành xong một chuyên đề:
- Tìm ra các dạng bài tương tự
- Tìm bài tập mới, lạ của chuyên đề
- Có cách viết độc đáo, sáng tạo
Việc rút kinh nghiệm sau mỗi bài kiểm tra thật sự là cần thiết, từ những lần rút kinh nghiệm học sinh nhận ra mình còn yếu ở phần nào để có thể khắc phục, luyện thêm.
Để thực hiện khâu này chúng ta chuẩn bị các bài tập theo dạng cấu trúc đề thi của chương trình SGK mới, có quy định thời gian làm bài, có chấm điểm, có khen thưởng nếu các em làm bài tốt, nhưng nếu các em làm bài chưa tốt thì ta không nên quở trách mà chỉ nên động viên để các em cố gắng hơn lần sau. Chúng ta nên đem đến cho học sinh sự hứng thú đối với môn học lẫn người dạy, như vậy việc dạy của chúng ta mới thuận lợi hơn.
*Hiệu quả của sáng kiến:
Tôi đã áp dụng phương pháp trên trong 2 năm học vừa qua tại nơi tôi công tác và thu về được kết quả như sau:
- Năm học 2020 – 2021: Có 7 em tham gia dự thi HSG Văn 6 cấp huyện
*Trong đó: 
STT
Họ và tên HS
Điểm số
Xếp giải
1
Lê Thị Ngọc Ánh
8,0
Nhất
2
Trần Thị Hồng Hạnh
7,5
Nhất
3
Lê Hà Trang
6,75
Nhì
4
Đinh Thị Quỳnh
5,75
Ba
5
Lê Nguyễn Bảo Trâm
5,25
Ba
6
Mai Lệ Trúc
5,0
Khuyến khích
7
Mai Lệ Chi
4,25

+ Đồng đội: Đạt giải Nhất
+ Xếp vị thứ 1 trong toàn huyện. 
- Năm học 2022-2023: Có 7 em tham gia dự thi HSG Văn 6 cấp huyện
*Trong đó: 	
STT
Họ và tên HS
Điểm số
Xếp giải
1
Công Thị Nguyệt Ánh
8,0
Nhất
2
Nguyễn Thị Ngọc Nhi
7,25
Ba
3
Phan Thị Kim Ngân
7,0
Ba
4
Nguyễn Thị Bảo Ngọc
6,5
Khuyến khích
5
Mai Ngọc Tường Vy
6,25
Khuyến khích
6
Nguyễn Bảo Linh
6,0
Khuyến khích
7
Lê Phương Nhi
5,75

+ Đồng đội: Đạt giải Nhì
+Xếp vị thứ 2 trong toàn huyện. 
Qua bảng thống kê trên, ta sẽ dễ dàng nhận thấy, nhờ áp dụng cải tiến phương pháp, cách tạo hứng thú, tổ chức hướng dẫn cách thức học và thực hành khi tham gia học bồi dưỡng học sinh giỏi nên tỉ lệ học sinh đạt giải cá nhân cũng như xếp vị thứ trong toàn huyện đạt kết quả đáng kể.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa đề tài
Trước tình hình học sinh không ham thích học Văn nói chung và “ngại” tham gia vào đội tuyển bồi dưỡng HSG nói riêng thì việc tạo nên sự hứng thú trong quá trình học tập là vô cùng quan trọng. Để đạt được kết quả như mong đợi thì cần có thời gian bởi khi áp dụng chương trình, SGK mới đòi hỏi người giáo viên ngoài việc xây dựng chương trình, các tài liệu tham khảo còn phải tìm biện pháp cho từng tiết dạy, thực hiện phương châm “lấy học sinh làm trung tâm”. 
Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, số lượng học sinh tham gia cũng như chất lượng bồi dưỡng của đội tuyển của tôi đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây các em đã có sự yêu thích, làm bài đúng hướng, bám sát vào thực tế đời sống cũng biết rút ra những bài học cho bản thân mình. Các em đã tự giác học bài, làm bài tập, có lối viết sáng tạo, biết cạnh tranh từng điểm số với các bạn .Tôi hy vọng với một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để thành công trong cuộc sống và biết cách bảo vệ môi trường sống xung quanh. Song dù có niềm đam mê, năng khiếu ít hay nhiều thì sự nhẫn nại, kiên trì rèn luyện trong học tập vẫn là con đường dẫn đến sự thành công lớn nhất.
Với "Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ văn 6 ở trường THCS" giáo viên tham gia bồi dưỡng có thêm kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG và đội tuyển HSG Văn đảm bảo cả về số lượng và chất lượng.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất. 
Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy bồi dưỡng HSG giáo viên cần phải :
- Để hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, các bộ phận gián tiếp như: Chi bộ, Ban Giám hiệu, Công đoàn, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm cũng cần quan tâm đặc biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức như: tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh tham gia bồi dưỡng. Ví dụ: giảm bớt tiết, bớt công tác kiêm nhiệm, bồi dưỡng thoả đáng cho giáo viên, có chế độ ưu tiên khuyến khích đối với học sinh đạt giải, tuyên dương khen thưởng kịp thời đối với các giáo viên và học sinh đạt thành tích cao. Qua những năm bồi dưỡng, tôi nhận thấy rằng người thầy cần phải không ngừng học hỏi và tự học hỏi để nâng cao trình độ, đúc rút kinh nghiệm, thường xuyên xây dựng nội dung chương trình và sáng tạo trong công tác giảng dạy. Bên cạnh đó, vai trò của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn cũng hết sức quan trọng trong việc động viên, khích lệ các em.
Tuy nhiên, để có những “vụ mùa bội thu”, ngoài những nỗ lực cố gắng của học sinh, sự quan tâm hỗ trợ của nhà trường để giáo viên có nhiều tài liệu tham khảo, có nhiều thời gian nghiên cứu và tổ chức bồi dưỡng thì giáo viên cũng cần phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng chí, đồng nghiệp, của phụ huynh học sinh. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi giống như chúng ta ươm một mầm non. Nếu chúng ta biết bảo vệ, biết thường xuyên chăm sóc, vun xới thì mầm non sẽ xanh tốt, phát triển.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi, bản thân tôi đã áp dụng và thu được những kết quả khả quan. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá, bổ sung để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, có giá trị hơn trong thực tiễn, góp một phần nhỏ vào việc đổi mới trông công việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn 6 ở trường THCS. 

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_cong_t.doc