SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9 tại Trường THCS Lương Thế Vinh

Trong những năm gần đây, kiểu văn nghị luận xã hội đã được chú trọng trong các nhà trường trung học. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu chí đánh giá đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT. Sự chuyển biến này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội giúp học sinh không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Thế nhưng thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là nhỏ. Học sinh quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục, dung lượng một bài không được quá dài, chỉ được viết trong một thời gian ngắn về một vấn đề trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo khoa ... Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh.

Trong những năm qua, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9, tôi luôn có ý thức trong việc giảng dạy, đặc biệt đã chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận nói chung và bài văn nghị luận xã hội nói riêng, vì đây là một vấn đề đang được các thầy cô rất quan tâm. Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận xã hội ở trường THCS hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em ở các bậc học tiếp theo, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của học sinh. Đặc biệt đối với lớp 9D mà tôi đang giảng dạy là một lớp nhiều đối tượng học sinh lực học trung bình, yếu, kém.

doc 18 trang Trang Lê 15/04/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9 tại Trường THCS Lương Thế Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9 tại Trường THCS Lương Thế Vinh

SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9 tại Trường THCS Lương Thế Vinh
ách sống bản lĩnh, có ý chí ... để có thể đón nhận những “quà tặng kì diệu” của cuộc sống do chính bản thân mình làm nên.
 4. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội
Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc khá khó khăn đối với học sinh. Để giúp các em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh nghiệm trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội.
- Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về một sự việc nào đó.
- Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu.
- Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của con người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái ... ).
Sau đây là một số dẫn chứng tiêu biểu có thể dùng làm dẫn chứng cho một bài văn nghị luận xã hội.
* Dùng nhân vật trong thực tế đời sống để làm dẫn chứng.
1. Bác Hồ: Một lãnh tụ vĩ đại, một nhà cách mạng lỗi lạc đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Để có được điều đó Người phải tự học, ý chí vươn lên trong cuộc sống, quan trọng hơn Bác còn là người biết hy sinh mình cho Tổ quốc nhân dân.
Khó khăn không làm cho ý chí lung lay mà ngược lại còn giúp cho con người có nghị lực hơn.
2. Niu-tơn: Là nhà toán học, vật lí, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh. Sinh ra thiếu tháng, là một đứa trẻ yếu ớt, Niu-tơn thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ông phải tự tạo ra những trò chơi cho mình và trở thành người rất tài năng.
Những thiếu thốn của bản thân không thắng nổi sức mạnh của nghị lực.
3. Bill Gates: Từ nhỏ đã say mê toán học, từng đậu vào trường Đại học Harvrard nhưng niềm say mê máy tính ông đã nghỉ học và cùng một người bạn mở công ty Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn, ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh và hiện nay ông đã dành 95% tài sản của mình làm từ thiện. Cuộc đời của ông là bài học cho sự thành công nhờ tự học và niềm đam mê công việc ... 
4. Phan Thị Huệ: Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV /AIDS dám công khai thân phận - Phạm Thị Huệ, quê ở Hải Phòng đã được tạp chí Time của Mĩ bầu chọn là “Anh hùng Châu Á”. Biết mình và chồng bị nhiễm nhưng cô đã chiến thắng bản thân, đóng góp sức lực cho cuộc đời. Tháng 02/2005 cô đã trở thành tình nguyện viên của Liên Hợp Quốc.
Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.
*Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng.
(1) Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người. Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ, hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS.
HIV/AIDS là một thảm hoạ, toàn nhân loại cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỷ này.
(2) 10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải hàng năm, trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu USD (gần 140 tỉ đồng)
Sau khi hướng dẫn học sinh sưu tầm các dẫn chứng, tôi nhận thấy các em làm bài tốt hơn. Bài viết lập luận chặt chẽ, xác thực với những dẫn chứng cụ thể trong cuộc sống đời thường. Những tấm gương giúp các em hoàn thiện mình hơn, những số liệu làm các em phải suy nghĩ và biết đưa ra hành động tích cực, để tạo nên sức hút cho bài làm.
5. Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận xã hội theo hướng mở
Trong những năm gần đây, đề thi môn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi về cấu trúc cũng như nội dung. Xu hướng chung của các kì thi là ra đề theo hướng mở. Việc ra đề theo hướng mở đã góp phần phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc học môn Ngữ văn. Nội dung của đề mở không chỉ là những vấn đề xã hội gần gũi, đời thường.
Hiện nay cách ra đề nghị luận xã hội của các thầy cô giáo trong các kì kiểm tra hoặc thi cử sáng tạo, phong phú. Điểm qua đề thi ngữ văn vào lớp 10, thi học sinh giỏi của một số trường trong huyện và trường tôi đã có điểm số cao hơn, có thể nhận thấy cách ra đề nghị luận xã hội thường dựa vào những cơ sở sau: 
Cách thứ nhất: 
Lấy hiện tượng xã hội nổi bật được cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cở sở cho nội dung đề bài.
Ví dụ: Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp qua đời lúc 18 giờ ngày 04/10/2013 khi ông vừa tròn 103 tuổi. Ngay sau sự ra đi của Đại tướng, trên mạng giới trẻ đồng loạt thay avatar (ảnh đại diện) chia sẻ sự mất mát lớn lao này. Theo 2 sao - Trang thông tin tổng hợp của Vietnamnet.
“Ngay trong đêm 4 tháng 10, rạng sáng ngày 5/10, một nhóm các bạn học sinh Hà Nội đã tập trung tại khu vực đường Điện Biên Phủ để thắp nến tiếc thương người anh hùng dân tộc”. Ngày 07/10/2013 báo Gia dinh.net đưa tin:  “Trên mạng xã hội cư dân mạng truyền tay nhau hình ảnh một thanh niên người Pháp tên Neang đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh mặc áo dài trắng, đầu chít khăn tang trắng theo đúng phong tục truyền thống của người Việt Nam, tay cầm tấm chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tỏ lòng thành kính”. Báo chí nước ngoài nhận định: “Đám tang Đại tướng là hiện tượng hiếm có!”. Hãy bàn luận về những sự việc nói trên. 
Cách thứ hai: Dựa vào các tác phẩm văn học, người ra đề nêu lên vấn đề xã hội và yêu cầu học sinh bàn luận.
Ví dụ: Một câu trong đề thi vào lớp 10 như sau: 
“Có một người cha trước khi chết gọi ba con trai đến bên giường, đưa cho họ bó tên và bảo:  “Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy được. Cả ba người đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó tên đã không gãy chiếc nào. Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc một. Trong phút chốc bó tên đã bị gãy ...  ”. (Truyện ngụ ngôn: Người cha và bó tên)
Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 2/3trang giấy thi bàn về tính đoàn kết trong gia đình và cộng đồng.
Qua đề văn đã dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy: việc có thêm nội dung nghị luận xã hội theo hướng mở sẽ khiến đề phong phú về nội dung và đa dạng về cách kiểm tra. Không chỉ vậy đề nghị luận xã hội còn giúp học sinh tự giác học tập biết quan tâm đến các vấn đề xã hội. Từ đó giúp các em thêm hiểu biết và chủ động trong cuộc sống. Khi làm bài các em còn có cơ hội thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của bản thân trước tình huống mà cuộc sống đặt ra. Nhờ đó kĩ năng sống được rèn luyện.
*Gợi ý.
- Bước 1: Đọc kĩ đề, phát hiện vấn đề cần giải quyết qua bản tin, câu chuyện, câu nói mà đề đã dẫn.
- Bước 2: Tìm những luận cứ để giải thích, chứng minh vấn đề đã được xác định.
Việc này thường xoay quanh các câu hỏi người làm bài tự đặt ra dựa vào vấn đề cần giải quyêt.
+ Hiện tượng (vấn đề) ấy xảy ra ở đâu, như thế nào? Tại sao có hiện tượng (vấn đề) ấy.
+ Ảnh hưởng, tác động của hiện tượng (vấn đề) ấy đến cuộc sống của những người xung quanh với xã hội như thế nào?
+ Những suy nghĩ về hướng giải quyết hiện tượng (vấn đề) đó.
Làm thế nào để phát huy (nếu là vấn đề tốt) hoặc hạn chế (nếu là vấn đề chưa tích cực).
+ Vấn đề đó đã tác động đến bản thân mình như thế nào? Bản thân hiểu ra điều gì từ vấn đề được nêu, có ước muốn, quyết định gì ... 
- Bước 3: Dựa vào các ý đã tìm được ở bước 2 để lập dàn ý.
+ Nếu viết bài văn dù độ dài chỉ một trang giấy thi, nhưng bố cục cũng phải đầy đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Bước 4: Hoàn chỉnh văn bản theo dàn ý đã lập bằng những câu văn có cảm xúc và lập luận chặt chẽ.
* Lưu ý: 
- Kĩ năng viết cộng vốn sống phong phú cộng cảm xúc chân thành, đúng đắn sẽ tạo được sức thuyết phục cho bài văn viết. 
- Giáo viên cần hướng dẫn cho các em học và tham khảo theo chủ đề trong cuộc sống: Chủ đề tình cảm gia đình (tình mẹ, tình cha, tình anh em ... ); tình bạn; chủ đề môi trường; vấn đề dân số; tệ nạn xã hội ... 
 6. Giáo viên cần có những bài văn mẫu để đọc cho học sinh tham khảo
Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên đọc một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức, cách viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu được chọn phải thực sự xúc động để lay động được tâm hồn đồng thời khơi gợi được chất văn trong các em.
Ví dụ: Viết một bài văn ngắn bàn về vấn đề: Những con người không chịu thua số phận.
Bài mẫu.
“Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu” M.Gorki đã từng nói như thế và điều đó thực sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những con người không chịu thua số phận như thầy Nguyễn Ngọc Ký, anh Trần Văn Thước, Nguyễn Công Hùng ... 
Trước hết ta phải hiểu thế nào là “không chịu thua số phận”. Đó là những người không chấp nhận mình mãi là tàn phế, vô dụng, không học tập, không đóng góp gì cho xã hội.
Không mấy người Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Ký đã liệt cả hai tay đã kiên trì luện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ. Anh Trần Văn Thước: bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đâu khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế.
Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo.
Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt qua bệnh tật và khẳng định được bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống tinh thần mạnh mẽ của họ. Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác. Đó chính là sự động viên, khích lệ, giúp đỡ của bạn bè, của người thân, là khát khao không muốn người thân của mình đau khổ, thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghị lực, khát vọng và ý chí của mình khiến em vô cùng khâm phục. Chính những tấm gương về họ đã xây đắp những ước mơ, hoài bão, trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình. Những người không chịu thua số phận những con người tàn mà không phế thực sự là những tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em, khích lệ bản thân mỗi người cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những người con có ích cho xã hội.
IV. Kiểm nghiệm 
Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong Học kì II năm học 2022-2023 đến giữa Học kì II năm học 2023-2024 (là hai năm học mà tôi dạy những lớp có học sinh yếu nhất trường. Kiến thức về văn học nói chung và văn nghị luận nói riêng là rất yếu như bảng khảo sát ở trên). 
Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài văn nghị luận xã hội của học sinh tại các lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã có những bước tiến mới, mặc dù chưa cao nhưng tôi cũng thấy được phần nào sự tiến bộ của các em. Giờ đây các em đã làm bài đã đúng hướng, biết bám sát vào yêu cầu của đề, dựa vào hiểu biết thực tế đời sống để rút ra những bài học cho bản thân mình. Các em đã hiểu bản chất của kiểu văn này, không thấy khó và viết văn không bị khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc sống đời thường để đưa vào bài; nhiều bài đã có sức hút và lay động được người đọc. Đặc biệt các em đã biết phân biệt hai kiểu bài nghị luận xã hội: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. 
Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau: Đầu học kì I năm học 2022-2023
Lớp

Sĩ số
Số HS không biết cách làm bài
Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình
Số HS làm bài khá, tốt
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
9D
35
 20
 57,1
 10
 28,6
 5 
 14,3
 Cũng nhờ áp dụng đề tài này mà trong năm học 2022-2023 chất lượng của các bài kiểm tra về dạng bài này được nâng lên để đạt được mức TB và đặc biệt trong kì thi vào 10 lớp tôi dạy đã đạt chỉ tiêu đề ra điểm TB 6,4. Cụ thể là: 
Lớp

Sĩ số
Số HS không biết cách làm bài
Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình - khá
Số HS làm bài khá - tốt
SL
%
SL
%
SL
%
9D
35
7
20,0
17
48,6
11
31,4
C. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để rèn luyện học sinh làm bài nghị luận xã hội tốt, tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp cụ thể như trên, với mong muốn giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để thành công trong cuộc sống. Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, tôi đã thấy được việc rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9, giáo viên cần: 
- Căn thời gian để phân chia nội dung kiến thức theo chủ đề và hướng dẫn rèn luyện cho học sinh cách làm bài cụ thể, phù hợp với đối tượng học sinh.
- Khi dạy phải giúp học sinh nắm chắc dạng bài này, đồng thời cần hướng dẫn kĩ cho học sinh kĩ năng diễn đạt tốt các luận điểm, kĩ năng chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các phần, các đoạn trong bài, sử dụng các dẫn chứng phù hợp.
- Cần phân biệt được giữa nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí.
- Cung cấp, đồng thời hướng dẫn cho học sinh tìm dẫn chứng cụ thể 
- Đặc biệt vào giai đoạn ôn luyện cho các kì thi, giáo viên nên có thao tác hệ thống bài tập và rèn luyện hai dạng cụ thể cho học sinh rèn thành thạo kĩ năng và vững kiến thức.
2. Kiến nghị
Đối với các cấp ngành giáo dục nên thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề có chất lượng về đổi mới phương pháp giảng dạy để giáo viên có cơ hội học hỏi và nâng cao năng lực chuyên môn.
Trong khuôn khổ đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm của cá nhân qua thực tế giảng dạy. Vì vậy không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Kính mong Hội đồng khoa học cấp trên xem xét, đánh giá để đề tài được hoàn thiện hơn, chất lượng hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
 	Đan Phượng, ngày 20 tháng 02 năm 2024
 Người viết
 Bùi Thị Vân

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_lam_bai_nghi_luan_xa_hoi.doc