SKKN Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ Văn 6 ở Trường THCS Xuân Thành
Trong chương trình Trung học cơ sở, môn Ngữ văn là một trong những môn Khoa học xã hội có vai trò rất quan trọng. Môn học này tác động rất sâu sắc đến đời sống tình cảm, tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người đến đỉnh cao của chân, thiện, mỹ. Đại thi hào văn Nga, Mắc xim Gocki từng viết: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân và làm nảy nở con người khát vọng hướng đến chân lý”. Văn học “chắp đôi cánh” để các em đến với mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương lai với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp. Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường Trung học cơ sở đáp ứng yêu cầu cấp học, vai trò của người thầy trong việc giảng dạy là vô cùng quan trọng, quyết định cho việc tiếp thu nắm vững kiến thức đến từng học sinh. Người thầy phải có phương pháp dạy học đúng dắn, phù hợp với từng phân môn, từng bài, từng đối tượng học sinh để đạt được kết quả tốt nhất trong việc dạy và học của thầy và trò.
Ngày nay, nước ta đã và đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước mà công nghệ thông tin được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, yêu cầu cần phát triển nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết. Do đó vấn đề dạy học theo hướng hiện đại đang đòi hỏi người dạy học và người học phải tìm tòi sáng tạo để chiếm lĩnh những tri thức để đáp ứng những nhu cầu phát triển xã hội. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa được đặt ra do yêu cầu đổi mới giáo dục, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho đất nước trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Đối với việc giảng dạy môn ngữ văn cần căn cứ vào đặc trưng vào sự vận dụng các phương pháp dạy học của từng phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn tuy được xây dựng theo hướng tích hợp nhưng không phủ nhận đặc trưng riêng của từng phân môn dạy trong quá trình giảng dạy.
Nhưng muốn đạt điều đó, người giáo viên phải có phương pháp vững vàng, có tri thức khoa học sáng tạo, lòng nhiệt tình say mê nghề nghiệp. Để thực hiện tốt việc giảng dạy môn Ngữ văn 6, người giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc điểm từng lớp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó chất lượng học tập của học sinh ngày được nâng cao. Nhìn lại thực tế chất lượng học sinh chưa đồng đều phần lớn do các em học môn ngữ văn còn yếu kém nhiều. Trước thực trạng như vậy, là người giáo viên giảng dạy cho học sinh tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Và tôi chon đề tài : Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ văn 6.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ Văn 6 ở Trường THCS Xuân Thành

n. a. Bản chất. Phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật là phương pháp mà người nói hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn sử dụng các hình thức ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để chuyển tải những thông tin đã chuẩn bị sẵn, những suy nghĩ, cảm xúc, hiểu biết của cá nhân mình tới người nghe, qua cung cấp kiến thức, giải thích những mối liên hệ nhân – quả, khám phá và sự giảng giải những khái niệm chung, qui luật, qua trình bày bằng phương tiện trực quan như bản đồ, tranh ảnh, hoặc đọc, bình bài thơ, đoạn văn. Người nghe sẽ tiếp nhận hệ thống thông tin đó từ người nói qua nghe, nhìn, ghi nhớ và tái hiện thông tin tùy theo yêu cầu của dạy học. b. Qui trình thực hiện: Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật cho bài “ Thầy bói xem voi” Bước 1: Chuẩn bị nội dung thông tin, phương tiện dạy học hỗ trợ. Đối với phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật đối với bài “ Thầy bói xem voi”. Mặc dù là phương pháp dạy học truyền thống nhưng khi áp dụng phương pháp dạy học này GV có thể cung cấp cho học sinh những tri thức kĩ năng với lời bình giảng gọn gàng, ngắn gọn, gợi cảm, thuyết phục mà bản thân học sinh còn lúng túng chưa cảm thụ thấu đáo, cần chuyển quá trình thuyết giảng của giáo viên kết hợp trao đổi, đàm thoại giữa giáo viên với học sinh để phát huy tính tích cực của học sinh. Ví dụ đối với bước 1: Giáo viên cần chuẩn bị phóng to bức tranh sách giáo khoa, chuẩn bị kĩ nội dung bài học. Bước 2: Giới thiệu bài một cách hấp dẫn gây sự chú ý cho học sinh, gây hứng thú. Trong cuộc sống ta thường nghe “ Thầy bói nói mò” , “ thầy bói nói dựa!” vậy cả 5 thầy bói xem voi phản ánh về con voi có chính xác không? Truyện nhằm khuyên nhủ ta điều gì, ta tìm hiểu truyện “ Thầy bói xem voi”. Bước 3: Hướng dẫn gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung truyện. Hỏi: Kể tên nhân vật trong truyện ? Học sinh: Năm thầy bói mù. Hỏi: Các thầy xem voi bằng cách nào? Học sinh: Dùng tay sờ vào voi. Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức tranh trong sách giáo khoa và nêu ba câu hỏi để học sinh thảo luận nhóm 3 phút, giáo viên hoàn toàn chủ động gọi ý cho học sinh làm việc không nên truyền thụ một chiều. Câu 1: Hỏi: thầy bói dùng tay sờ voi vậy các thầy miêu tả con voi như thế nào? Câu 2: Tác giả dùng biện pháp nghệ thuật gì, tác dụng ra sao? Câu 3: Thái độ các thầy khi xem? Học sinh sẽ quan sát và suy nghĩ trả lời qua bức tranh. Đây là bức tranh mô tả thầy sờ tai, sờ chân còn ba ông đã sờ xong đang tranh cãi. Các thầy tranh cải như sau. Nhóm 1: câu 1 bổ sung, nhận xét, chốt ý: Thầy sờ vòi nói : “ con voi sun sun như con đỉa”. Thầy sờ ngà nói: “ con voi nó trần trẩn như đòn càn” Thầy sờ tai nói : “ bè bè như quạt thóc” Thầy sờ chân nói: “ sừng sững như cột đình”. Thầy sờ đuôi nói : “ tun tủn như chổi sể cùn” Học sinh bổ sung qua bức tranh cho thấy kết qua các thầy ai cũng cho mình đúng, ba thầy đang cãi, hai thầy còn sờ voi, nhưng năm thầy sẽ tranh cãi không ai chịu lắng nghe ý kiến của ai nên đánh nhau toạc đầu. Nhóm 2: Nghệ thuật miêu tả, so sánh. Nhóm 3: Câu 3. Cả năm thầy đều cho mình là đúng, phủ nhận ý kiến người khác. Cho thấy thái độ chủ quan sai lầm . Giáo viên khẳng định: Bằng lời miêu tả và cách so sánh tuyệt đối tương đồng và những từ láy tượng hình, các thầy đã miêu tả hết sức sinh động về “con voi” mà mình thấy. Hỏi : sai lầm của họ là ở chổ nào? Học sinh: mỗi thầy chỉ sờ một bộ phận mà phán toàn bộ con voi. ? : Người như thế nào gọi là thầy bói? - Học sinh: Đọc chú thích 1 ? : Truyện có tính chất gì? - Học sinh: chế giễu thầy bói và nghề bói toán. Giáo viên giúp học sinh nhận ra một bài học sờ vào voi mà không nói đúng về voi thì làm sao có thể nói đúng về số phận con người. Rút ra bài học cho bản thân học sinh: không mê tín “ Bói ra ma quét nhà ra rác”, “Hòn đất mà biết nói năng Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn”. Bước 4: Tóm tắt toàn bộ bội dung thông tin ? : Truyện “ Thầy bói xem voi” cho ta bài học gì? - Muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện, rút ra được câu thành ngữ “Thầy bói xem voi”. 2.2.3. Phương pháp vấn đáp gợi tìm: Là phương pháp hình thành trên cơ sở quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh thông qua việc giáo viên và học sinh đặt ra những câu hỏi và tìm ra câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định. a. Bản chất Bản chất của phương pháp này là sử dụng một hệ thống câu hỏi cho học sinh tìm tòi suy nghĩ nhằm đạt mục tiêu của bài học. Giáo viên không trực tiếp đưa ra kiến thức mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để từ đó hình thành kiến thức căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức có thể có các loại vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa, vấn đáp tìm tòi. b. Qui trình thực hiện: Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp vấn đáp gợi tìm khi tìm hiểu văn bản Treo biển. Bước 1. Giáo viên cần nêu một số câu hỏi cho học sinh chuẩn bị ở nhà. Đến lớp học sinh tham gia vào hoạt động dạy- học. Bước 2. Giáo viên là người đưa ra vấn đề vấn đáp, học sinh nêu suy nghĩ, học sinh khác bổ sung. Hệ thống câu hỏi theo trình tự: ? Truyện cười là gì? Học sinh nhớ lại phần chuẩn bị ở nhà nắm được và trả lời được truyện cười là gì. ? Truyện có những nhân vật nào? - Anh chủ cửa hàng bán cá, những người qua đường “góp ý”. ? Theo em ông chủ cửa hàng bán cá treo biển để làm gì? - Để quảng cáo sản phẩm của cửa hàng để người mua biết và mua. ? Nội dung của tấm biển là gì? - “Ở đây có bán cá tươi” ? Theo em, có thể thêm hay bớt thông tin nào ở tấm biển đó không? Vì sao? - Không, vì tấm biển đã đáp ứng đủ thông tin cho người mua (nơi bán hàng, hoạt động của cửa hàng, hàng được bán, chất lượng hàng). ? Nếu sự việc chỉ có như vậy đã thành truyện cười chưa? Vì sao? - Vì chưa xuất hiện yếu tố gây cười. ? Từ khi tấm biển được treo lên, điều gì xảy ra? - Nhiều người đi qua góp ý về nội dung tấm biển. và nhà hàng đã nghe theo và sửa. ? Nội dung của tấm biển được góp ý mấy lần? Mấy lần nhà hàng chữa biển. - Bốn lần góp ý. Ba lần chữa biển. ? Lần thứ nhất, người góp ý là ai? Với nội dung gì? - Người qua đường. Biển thừa chữ “tươi” vì không ai bán cá ươn. ? Lần thứ hai, khách hàng góp ý điều gì? - Tấm biển thừa chữ “ở đây”. ? Lần thứ ba, khách hàng góp ý với lí do nào? - Không ai bày cá ra để khoe, nên không cần phải đề chữ “có bán”. ? Nhà hàng nghe theo những góp ý đó như thế nào? - Nhà hàng làm theo sửa biển dần dần ? Điều đó có đáng cười không? Vì sao? - Nhà hàng máy móc nghe theo ý kiến người khác. - Đáng cười vì đã làm mất đi thông tin cần thiết của biển quảng cáo. ? Lúc này tấm biển chí còn chữ “cá” rất mơ hồ, có ai còn góp ý nữa không? Sự việc diễn ra như thế nào? - Người hàng xóm cho rằng không cần trên tấm biển phải đề chữ “cá” vì nhà đã bày đầy cá với mùi tanh. ? Nhà hàng đã làm gì? - Nhà hàng nghe theo cất biển. ? Đây có phải là sự việc đáng cười nhất không? Vì sao? Học sinh trao đổi thảo luận theo cặp trong 1 phút và trả lời. - Là sự việc đáng cười nhất. Vì nhà hàng đã biến việc treo biển thành cất biển. Một việc làm vô nghĩa. Bước 3: Hệ thống hóa nội dung vấn đáp: Giáo viên: Truyện cười tạo ra nhiều sắc thái tiếng cười: có tiếng cười khôi hài, chế giễu, phê phán nhẹ nhàng, có tiếng cười châm biếm đả kích sâu cay. ? Theo em, truyện Treo biển tạo ra tiếng cười nào? - Tiếng cười chế giễu phê phán nhẹ nhàng, tiếng cười mua vui. ? Theo em, dân gian mượn truyện này để cười ai và cười điều gì? - Cười những người không có chủ kiến, không suy nghĩ kĩ khi làm theo ý kiến người khác, dẫn đến hỏng việc.. ? Qua truyện treo biển em hiểu gì về nghệ thuật truyện cười? Câu hỏi này HS thảo luận theo bàn trong 1 phút. - Ngắn gọn, khai thác cái biểu hiện trái tự nhiên, trong đời sống xã hội, có khả năng gây cười. Những phương pháp dạy học này là phương pháp đặc thù trong môn Văn học nhưng theo hướng hiện nay “lý luận luôn gắn liền với thực tiễn”. Tức là học sinh qua việc học sẽ biết thực hành vào cuộc sống, biết thôi thì chưa đủ cần phải vận dụng kiến thức đó như thế nào đó mới là mục đích của giáo dục, nên phương pháp dạy học hợp tác là phương pháp không thể thiếu khi dạy môn Văn. 2.2.4. Phương pháp dạy học hợp tác (phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp cùng tham gia) Phương pháp này giáo viên tiến hành bằng cách chia học sinh trong lớp thành nhiều nhóm nhỏ, các thành viên trong nhóm cùng chia sẽ những suy nghĩ, kinh nghiệm, hiểu biết bản thân về bài học qua trao đổi, thảo luận. a. Bản chất: Dạy học hợp tác là phương pháp dạy học dựa trên sự tương tác (cùng tham gia) giữa học sinh – học sinh là chính và tương tác giữa giáo viên – học sinh. Là phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tham gia hợp tác tích cực của các thành viên để tìm kiếm giải pháp cho một vấn đề được đưa ra, nhằm đạt được mục tiêu học tập. Trong phương pháp này giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và có thể tham gia thảo luận giúp cuộc thảo luận đi đúng hướng. Học sinh suy nghĩ, cùng hợp tác tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận, tranh luận, đưa ra các giải pháp, đánh giá và cùng kết luận khái quát về vấn đề, rút ra bài học kinh nghiệm từ sự hợp tác. b. Quy trình thực hiện: Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm tìm hiểu nội dung: tìm hiểu ý nghĩa hình tượng Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh - Bước 1: Hoạt chung cả lớp. Tổ chức các nhóm (chia nhóm) và giao nhiệm vụ cho các nhóm đọc câu hỏi và thảo luận câu hỏi. Giáo viên nêu vấn đề cho học sinh thảo luận, treo bảng phụ: Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, Sơn Tinh, Thủy Tinh được miêu tả bằng những chi tiết nào? Em có suy nghĩ gì về hình tượng Sơn Tinh và Thủy Tinh? - Bước 2: Hoạt động theo nhóm: Học sinh suy nghĩ trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm, thống nhất ý kiến, cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm mình trước tập thể. - Bước 3: Hoạt động chung cả lớp: Giáo viên gọi một đại diện nhóm trình bày kết quả của nhóm, học sinh khác quan sát, bổ sung, nhận xét. * Về cơ bản phải nêu được: - Về nghệ thuật miêu tả: đêu dùng những yếu tố tưởng tượng kì ảo để xây dựng nhân vật. Cả hai vị thần đều có tài cao phép lạ. Cuộc giao tranh giữa hai vị thần cũng đậm yếu tố tưởng tượng. - Suy nghĩ về 2 nhân vật: Sơn Tinh và Thủy Tinh là những nhân vật tưởng tượng hoang đường, không phải là nhân vật có thật. Hai nhân vật này mang ý nghĩa khái quát: Thủy Tinh là hiện tượng mưa to, bão lụt ghê gớm hàng năm; Sơn Tinh là lực lượng cư dân Việt cổ đắp đê chống lũ lụt, là ước mơ chiến thắng thiên tai của người xưa được hình tượng hóa. Bước 4: Giáo viên tổ chức chốt lại, nhằm xác nhận kiến thức và đặt vấn đề tiếp theo. Chốt lại những ý học sinh vừa nêu. Giáo viên: Vào thời đại Hùng Vương, nhân dân ta đã biết đắp đê ngăn lũ dưới sự chỉ đạo của Vua Hùng. Tư duy thần thoại, trí tưởng tượng đặc sắc của người xưa đã khái quát hóa sức nước và hiện tượng bão lụt hàng năm thành nhân vật Thủy Tinh, kẻ thù hung dữ và truyền kiếp của Sơn Tinh; Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí khách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động của cư dân Việt cổ và chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống lũ lụt. Giáo viên nêu vấn đề rút ra kết luận phần ghi nhớ (sách giáo khoa) Bước 5: Đánh giá và cho điểm một số cá nhân qua đóng góp trong hoạt động nhóm. Rõ ràng việc áp dụng các phương pháp tích cực này trong dạy đọc hiểu văn bản là rất khả thi. Và chỉ khi thầy thật sự đặt mình vào vị thế học của học trò ta sẽ có thể đưa ra được những giải pháp hữu hiệu. III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI: 1. Hiệu quả kinh tế Khi tôi áp dụng những phương pháp đặc thù trong giờ văn, bản thân tôi nhận thấy rằng đa số các em hiểu bài, mạnh dạn đưa ra ý kiến và quan điểm của mình, biết nêu lên những thắc mắc của bản thân để cùng nhau giải quyết bàn bạc nên các em đã khắc sâu kiến thức, khi hướng dẫn tìm hiểu văn bản các em đã tích cực suy nghĩ chủ động tham gia thảo luận nhóm khi giáo viên yêu cầu. Biết vận dụng kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, biết cách đọc diễn cảm, đọc phân vai để khai thác nội dung bài học biết bình giảng ngắn khi giáo viên yêu cầu vận dụng kỹ năng giao tiếp, năng lực lao động hợp tác theo nhóm, hứng thú trong công việc chung, đa số các em có những tình cảm thái độ học tập đúng đắn. Sau khi tôi áp dụng đổi mới phương pháp dạy học kết quả cuối năm 2017-2018 đạt được như sau: Lớp TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 6A 28 3 10.7 10 35.7 11 39.3 4 14.3 6B 30 15 50 13 43.3 2 6.7 0 0 Qua kết quả đã đạt được như trên tôi nhận thấy rằng các em đã nắm vững kiến thức, rút ra được những bài học sâu sắc cho bản thân để áp dụng vào cuộc sống. Từ đó các em đã có sự yêu thích môn Văn, kết quả cao hơn khi tôi áp dụng phương pháp dạy học trên. 2. Hiệu quả về mặt xã hội Khi vận dụng các phương pháp nói trên trong quá trình giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau: * Đối với giáo viên: - Về phương pháp: + Biết cách áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đối với từng phân môn, từng lớp học, từng đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu + Áp dụng phương pháp dạy học phù hợp với nội dung từng bài: + Biết thiết kế hệ thống câu hỏi theo một trình tự: Tái hiện, thông hiểu, vận dụng. + Biết điều khiển, hướng dẫn học sinh học tập tự giác, kích thích tư duy trong quá trình học tập trên lớp cũng như tự học ở nhà. + Tạo cơ hội cho các em mạnh dạng phát biểu ý kiến quan điểm của cá nhân. - Về nội dung: Muốn học sinh nắm vững kiến thức bài học giáo viên cần: + Nghiên cứu kỹ nội dung đối với từng bài, nắm vững nội dung thông qua bài soạn, tài liệu. + Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn. * Đối với học sinh: - Tích cực tham gia xây dựng bài, tích cực thảo luận nhóm, tranh luận ở lớp. - Nắm vững kiến thức của từng bài, học sinh đã biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Tóm lại để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao giáo viên phải nắm vững các phương pháp dạy học, nội dung của từng bài, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học. Còn đối với học sinh cần tích cực tham gia xây dựng bài, chuẩn bị bài ở nhà một cách kỹ lưỡng thì việc dạy – học kết quả mới khả thi. Như vậy muốn có kết quả cao cần có sự nỗ lực của giáo viên và sự cố gắng của học sinh. IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN. Tôi xin cam đoan không sao chép hoặc vi phạm bản quyền tác giả. Nếu vi phạm, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm với cơ quan có thẩm quyền. CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (xác nhận) TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Vũ Thị Thắm PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO XUÂN TRƯỜNG (xác nhận, đánh giá, xếp loại) ............................................................................................. ............................................................................................. ............................................................................................. ............................................................................................. ............................................................................................. ............................................................................................. .............................................................................................
File đính kèm:
skkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_nham_nang_cao_hieu_qua_mon_n.docx