SKKN Một số phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ kết hợp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT ở huyện Miền núi Quỳ Hợp

Sinh thời, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp… Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp”. Trong tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” của nhà văn, nhà báo Nguyễn An Ninh cũng viết: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị...”. Có thể nói, tiếng Việt đã trở thành một trong những vũ khí giúp dân tộc ta thoát khỏi mọi vòng xiềng xích nô lệ để trở thành một quốc gia độc lập. Không những thế, nó còn góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, giáo dục là lĩnh vực hoạt động có hiệu quả nhất trong việc rút ngắn khoảng cách văn hoá, kinh tế giữa các vùng miền và dân tộc. Tiếng Việt có nhiệm vụ quan trọng trong việc hỗ trợ các dân tộc cùng hoà nhập.Với xu thế hội nhập toàn cầu về mọi mặt, ngôn ngữ còn là một trong những công cụ mạnh mẽ nhất giúp tăng cường hợp tác, hữu nghị…Nó giúp xây dựng xã hội tri thức toàn diện, bảo tồn các di sản văn hóa, sự phát triển lành mạnh.

Một nền văn hóa hòa bình chỉ có thể được xây dựng trong một không gian, nơi tất cả mọi người có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ của dân tộc họ một cách tự do và đầy đủ trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Do đó, vấn đề phát triển năng lực ngôn ngữ là một vấn đề hết sức quan trọng, cần thiết của mọi người và quốc gia. Ở Việt Nam, các nhà giáo dục học đã rất chú trọng việc phát triển năng lực ngôn ngữ trong chương trình giáo dục trung học phổ thông (THPT) theo định hướng chuẩn đầu ra về phẩm chất, năng lực. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đề cập trong Đề án “Đổi mới chương trình và SGK giáo dục phổ thông sau năm 2015 “Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển năng lực người học”; Mỗi môn học, ngoài chức năng cung cấp kiến thức tạo ra những con người có khả năng hội nhập, phù hợp xu thế chung của thời đại. Đồng thời còn có nhiệm vụ tương tác, giúp học sinh phát triển một cách toàn diện về tri thức, nhân cách, biết cảm thụ cái hay, cái đẹp và luôn vươn tới sự khát khao chinh phục tri thức, mong muốn thể hiện mình và cống hiến cho quê hương đất nước.

pdf 62 trang Trang Lê 04/09/2025 400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ kết hợp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT ở huyện Miền núi Quỳ Hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ kết hợp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT ở huyện Miền núi Quỳ Hợp

SKKN Một số phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ kết hợp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT ở huyện Miền núi Quỳ Hợp
 tiễn cuộc sống ( phong tục, tập 
quán, lối sống) đã kích thích được HS trong quá trình học tập. 
- Trong giờ dạy thực nghiệm, tương tác giữa thầy và trò nhiều hơn, gắn bó và 
tích cực hơn giờ học của lớp đối chiếu. 
- Bước đầu có nhiều học sinh hướng về những giá trị văn hóa truyền thống: 
hát dân ca nhất là dân ca của dân tộc mình (Thay vì trước đây các em chỉ hát nhạc 
trẻ) 
- Đa số học sinh có ý thức hơn trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chung ở 
nơi công cộng (Trường học, chợ) 
- Các em học sinh dân tộc Thái không còn dùng cách nói khẩu ngữ của người 
Thái trong giao tiếp ở trường học, với thầy cô và bạn bè (Nếu có nói, các em sẽ sửa 
chữa ngay) 
- Học sinh của ba dân tộc Thái, Thổ, Kinh hòa đồng. Không còn tình trạng 
phân biệt dân tộc với “không dân tộc” như khi mới vào lớp 10. 
- Nhiều học sinh dân tộc Thái bắt đầu có xu hướng tìm hiểu, học chữ Thái. Và 
từ đó các em nhận ra được những nét bản sắc văn hóa của dân tộc mình: Tự tin 
mặc trang phục trong các hoạt động tập thể ở trường lớp. Tích cực tham gia các 
hoạt động văn nghệ. (Phụ lục) 
- Đặc biệt có nhiều em mạnh dạn trong hoạt động thảo luận nhóm, xây dụng 
bài. Các em rất thích thú khi sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin để làm các 
bài tập thực tế và làm rất tốt (Phụ lục) 
7.2. Kết quả định lượng. 
Để so sánh, đánh giá về định lượng mức độ tiếp thu và vận dụng kiến thức 
của học sinh ở các lớp thực nghiệm và đối chứng, tôi thống kê và so sánh điểm bài 
kiểm tra trước thực nghiệm và điểm bài kiểm tra sau thực nghiệm và thu được kết 
quả như sau: 
51 
Bảng thống kê điểm bài kiểm tra trước thực nghiệm 
Nhóm Tổng 
số HS 
Điểm/số HS đạt được 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
TN 42 0 0 2 3 8 11 7 8 4 0 
ĐC 43 0 0 3 4 10 11 6 7 3 0 
Bảng thống kê điểm bài kiểm tra sau đối chứng 
Nhóm Tổng 
số HS 
Điểm/số HS đạt được 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
TN 42 0 0 0 1 3 7 14 10 5 3 
ĐC 43 0 0 1 3 11 15 5 6 3 0 
Việc xử lí kết quả các lần kiểm tra theo công thức tổng quát sau: 
1
1
 =
n
i i
i
X
n
x n
 (1) 
Trong đó X là giá trị trung bình cộng, n là số học sinh. 
Áp dụng công thức (1), ta có: 
Bảng so sánh điểm trung bình và độ lệch chuẩn của bài kiểm tra trước và 
sau thực ngiệm 
Nhóm 
Số HS 
Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm 
Giá trị trung 
bình ( X ) 
Độ chênh lệch 
điểm hai lớp 
Giá trị trung 
bình ( X ) 
Độ chênh lệch 
điểm hai lớp 
TN 43 6.35 0.26 7.3 0.98 
ĐC 44 6.09 6.32 
52 
Số HS 
Điểm 
số 
Biểu đồ phân bố điểm bài kiểm tra trước thực nghiệm của nhóm ĐC và TN 
Số HS 
Điểm 
số 
Biểu đồ phân bố điểm bài kiểm tra sau thực nghiệm của nhóm ĐC và TN 
Qua số liệu thu được sau kết quả thực nghiệm cho thấy: Điểm trung bình 
chung của lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chiếu. Độ chênh lệch điểm trung bình 
giữa hai lớp trước thực nghiệm là 0.26, sau thực nghiệm độ chênh lệch này là 0.98. 
Kết quả đó cho thấy, khi kết hợp các PPDH và KTDH trong phân môn tiếng Việt 
một cách phù hợp thì không những giúp học trò phát triển được năng lực ngôn ngữ 
mà điều đáng nói hơn là giúp các em thay đổi được nhận thức theo cách tích cực. 
Từ việc tự ti, sử dụng sai từ, giao tiếp kémViệc phát triển năng lực ngôn ngữ đã 
khiến các em tự tin hơn, năng động hơn trong mọi hoạt động và đương nhiên các 
em sẽ nhận ra những giá trị vô hình và nhiều cơ hội quanh mình. Ý thức rõ tầm 
quan trọng của năng lực giao tiếp, năng lực tạo lập vặn bản và các năng lực khác 
liên quan đến ngôn ngữ cho đời sống hằng ngày, cho cơ hội việc làm và thành 
công trong tương lai. 
0
2
4
6
8
10
12
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thực nghiêm
Đối chứng
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Lớp thực nghiệm
Lớp đối chứng
53 
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
I. Kết luận 
Tôi đã từng rất trăn trở, đổi mới PPDH khi nhìn những học sinh bước vào lớp 
10 các em rụt rè, sợ sệt trong giao tiếp, ngủ gục trên bàn trong giờ học, trả lời nhát 
gừng khi cô hỏivà tôi đã từng thất bại. Vì có lẽ đổi mới phương pháp dạy học 
trong nhiều năm trước tôi đã áp dụng chỉ là cái “vỏ”. Giờ đây, sau rất nhiều năm 
kiên trì vận dụng kết hợp những PPDH và KTDH một cách phù hợp: có sự “gạn 
đục, khơi trong” và bước đầu đã có kết quả. Chứng kiến chính những học sinh làm 
mình trăn trở ấy hăng say thảo luận, chủ động gặp hỏi bài, cầm micro phỏng vấn 
làm bản tin giới thiệu về bản sắc văn hóa của dân tộc mìnhtôi chợt nhận ra: Đây 
mới chính là “quả ngọt” của việc đổi mới những phương pháp dạy học. (Phụ lục) 
Qua quá trình nghiên cứu đề tài đã thu được những kết quả sau: 
1. Đề tài bước đầu đã làm rõ tầm quan trọng, tính cấp thiết, hiệu quả của dạy 
học phân môn tiếng Việt khi kết hợp các PPDH VÀ KTDH phù hợp, gắn với thực 
tiễn, đặc biệt gắn với thực tiễn giáo dục. Đặc biệt là phát triển năng lực sử dụng 
ngôn ngữ trong học sinh ở miền núi. 
2. Kết quả trên cũng cho thấy, dạy học gắn với thực tiễn và năng lực của 
người học là hướng đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với chương trình giáo 
dục phổ thông mới. 
3. Ngoài ra, đề tài này cũng đề xuất được một số quan điểm và biện pháp sư 
phạm cơ bản làm cơ sở định hướng cho GV trong quá trình dạy học gắn với thực 
tiễn. Đề tài giúp giáo viên có tính sáng tạo, có các nhìn mới về quan điểm thiết kế 
một số giáo án. Thay vì thói quen cũ cho rằng cứ dạy hết kiến thức SGK cho học 
sinh là được. Thì nay các em được bồi dưỡng các năng lực kỹ năng sống rất bổ ích 
trong giao tiếp. Các em ý thức rõ được gìn giữ phát huy bản sắc dân tộc không phải 
là khái niệm trừu tượng, xa vời mà đơn giản ngay trong lời ăn, tiếng nói, trang 
phục, cách cư xử... ngay trong giờ học tiếng Việt. Từ đó các em thêm yêu tiếng 
Việt, thích giao tiếp và học giờ không khô khan, không mang tính lý thuyết mà rất 
gần gũi với cuộc sông hằng ngày. 
4. Tuy nhiên, tôi cũng nhận thức rằng, đổi mới phương pháp dạy học không 
có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách có 
hiệu quả các phương pháp dạy học truyền thống theo quan điểm dạy học tích cực 
kết hợp với các phương pháp hiện đại. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải có 
tâm huyết trong việc tìm tòi, áp dụng thử nghiệm và năng lực sư phạm thể hiện 
thông qua phương pháp giảng dạy. Dạy học là một hoạt động trọng tâm của quá 
trình giáo dục. Trong hoạt động ấy, điều quan trọng là phải đặt học sinh ở vị trí 
trung tâm để xây dựng kế hoạch dạy học; để đưa ra những PPDH và KTDH phù 
54 
hợp, tối ưu nhất đối với học trò. Nhất là với đối tượng học sinh miền núi, nơi có 
nhiều dân tộc anh em sinh sống. 
Qua thực nghiệm tôi nhận thấy, khi kết hợp các PPDH và KTDH phù hợp với 
đối tượng học sinh thì giáo viên sẽ không chỉ phát triển được những năng lực phẩm 
chất của người học nói chung mà quan trọng hơn là giúp các em có được những 
năng lực, kỹ năng cần thiết sau khi rời ghế nhà trường. 
Gần 20 năm trong nghề, gắn bó với mảnh đất Quỳ Hợp, tôi cũng thực sự bất 
ngờ trước những thay đổi tích cực, sáng tạo của học sinh nhất là những em học 
sinh người dân tộc thiểu số cũng như các em người dân tộc Kinh ở miền núi. Sự 
mạnh dạn và làm việc có trách nhiệm của HS càng tạo động lực, hứng thú cho giáo 
viên và giáo viên cũng học được nhiều từ chính các bạn học sinh khác. 
Từ những tìm tòi nghiên cứu của bản thân khi dạy, tôi mong muốn qua đề tài 
nay tìm được những “tiếng nói” mới, “lối đi” mới trong rất nhiều những phương 
pháp dạy học đã có hoặc đã cũ nhưng vẫn phát huy được hiệu quả trong dạy học 
Ngữ văn nói chung, phân môn tiếng Việt nói riêng cho học sinh ở trường THPT 
đóng ở các địa bàn miền núi; nhằm đạt được mục tiêu kép: Phát huy năng lực ngôn 
ngữ gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. 
Rất mong được sự góp ý, nhận xét một cách chân thành từ các đồng nghiệp 
dạy môn Ngữ văn. 
 II. Kiến nghị, đề xuất. 
Bản thân qua quá trình thực hiện đề tài xin được kiến nghị đề xuất một số ý 
kiến để góp phần hoàn thiện đề tài và để đề tài được đưa vào áp dụng rộng rãi hơn. 
1. Đối với giáo viên: 
- Cần thể hiện trách nhiệm cụ thể của mình khi dạy học bằng cách nghiên cứu 
quan tâm đến đối tượng học sinh của mình trong quá trình thiết kế nội dung, 
phương pháp dạy học. Không nên áp dụng một kế hoạch dạy học cho nhiều đối 
tượng học sinh. Trong quá trình dạy học GV phải chuẩn bị tốt các thiết bị dạy học 
và định hướng trọng tâm cho HS chuẩn bị bài ở nhà. Trong giảng dạy GV phải 
thực sự “cùng suy nghĩ, trăn trở” với học trò. 
- Những giáo viên dạy ở miền núi cần tìm hiểu bản sắc văn hóa, phong tục tập 
quán của các dân tộc anh em trên địa bàn. Tốt nhất là tự học, hoặc tham gia lớp 
hoc dạy tiếng dân tộc để có thêm cách tiếp cận, gần gũi, hiểu đối tượng học sinh 
của mình. 
- Gắn dạy học với thực tiễn, không nên chỉ tuân theo một cách máy móc 
những kiến thức định sẵn trong sách giáo khoa. Dạy học tiếng Việt phải hướng vào 
giao tiếp chú ý tới trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh. Đảm bảo mối quan hệ 
hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện năng lực, phẩm chất, kỹ năng. 
2. Đối với tổ, nhóm chuyên môn: 
55 
- Thường xuyên trao đổi chuyên môn để xây dựng được nhiều hơn nữa các 
bài dạy thực sự có chất lượng. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn với nội dung phong 
phú, thiết thực, động viên tinh thần cầu thị trong tự bồi dưỡng của giáo viên, giáo 
dục ý thức khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với 
đồng nghiệp. 
3. Đối với nhà trường: 
Cần quan tâm một cách thiết thực đến việc đổi mới PPDH trong nhà trường. 
Đồng thời cần động viên, nhắc nhở giáo viên thường xuyên áp dụng các phương 
pháp và các kĩ thuật dạy học tích cực. Bên cạnh đó, nhà trường nên tạo điều kiện 
để giáo viên tiếp tục có cơ hội được tham dự những buổi hướng dẫn, trao đổi kinh 
nghiệm; Tổ chức các buổi tập huấn bối dưỡng nâng cao năng lực sử dụng công 
nghệ thông tin và các phần mềm hỗ trợ dạy học; Chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất, 
trang thiết bị tốt hơn để giáo viên có thể thực hiện nhiệm vụ của mình; Có sự đánh 
giá đúng đắn và đề xuất khen thưởng những giáo viên tích cực đổi mới phương 
pháp dạy học và thực hiện đổi mới đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. 
Nhà trường cần đi tiên phong trong việc tổ chức cho học sinh tham gia các 
hoạt động giữa giờ, gắn với việc bảo tồn, phát huy các giá trị của văn hóa Thái. 
Chẳng hạn, trong các giờ ra chơi: múa xòe, chơi trò chơi dân gian, tập võ cổ truyền 
nhất Nam, biểu diễn dân vũ Thái. 
4. Đối với Bộ Giáo dục & Đào tạo: 
Việc sửa đổi, thay sách giáo khoa, bổ sung tài liệu tham khảo cần chú ý đến 
đối tượng học sinh miền núi, dân tộc thiểu số có những ngữ liệu phù hơp. 
Trên đây chỉ là một số tìm hiểu, áp dụng những ý kiến mang tính cá nhân đã 
được bản thân đúc rút và thu được với những kết quả khả quan ban đầu trong quá 
trình dạy học. Rất mong nhận được những ý kiến trao đổi, góp ý, bổ sung của quý 
đồng nghiệp để tôi được học hỏi, tiếp thu và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ giáo dục 
của mình và hi vọng nó sẽ trở thành mọt kênh tham khảo của đồng nghiệp dạy Ngữ 
văn ở các trường THPT khu vực miền núi. 
Tôi xin chân thành cảm ơn! 
Quỳ Hợp, ngày 08 tháng 4 năm 2022 
 TÁC GIẢ 
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng
2. Bộ GD-ĐT Ngữ văn (Dự thảo.2018). Chương trình giáo dục phổ thông
môn thảo).
3. Bộ GD-ĐT (2017). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp cho giáo viên trung học cơ sở hạng II. NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Nguyễn Trí - Nguyễn Trọng Hoàn (2001). Một số vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học Văn - Tiếng Việt. NXB Giáo dục.
5. Nguyễn Quang (2016). Từ năng lực ngôn ngữ đến năng lực liên văn hóa.
Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 32, tr1-9. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
6. SGK Ngữ văn 12 tập 1, chương trình chuẩn, NXBGD (2011) - Bộ Giáo dục
& Đào tạo.
57 
PHỤ LỤC 1 
 KHẢO SÁT SAU KHI THỰC NGHIỆM 
ĐỀ BÀI 
Câu 1. Trong các trường hợp sau, trường hợp nào nên sử dụng từ ngữ nước 
ngoài thay cho từ thuần việt? 
A. Tôi phải vào toalet một chút. 
B. Ca sĩ có nhiều fan hâm mộ nhất hiện nay là ai? 
C. Cô ấy đã trở thành ca sĩ thần tượng của tuổi teen 
D. Lập trình viên là một nghề hot nhất hiện nay. 
Câu 2. Trong các trường hợp sau, trường hợp nào không thể thay từ ngữ 
nước ngoài bằng từ thuần Việt? 
A. Chủ nhật này chúng mình cùng đi shopping nhé! 
B. Tôi mơ ước có một chiếc laptop của riêng mình. 
C. Số lượng người sử dụng Computer ở nước ta đang tăng lên nhanh chóng. 
D. Microsoft ProwerPoint là một phần mềm hỗ trợ trình chiếu rất tiện dụng. 
Câu 3. Từ nào sau đây thích hợp để sử dụng trong câu sau: Bạn ấy được ...vào 
ban trung tâm lớp 11B1 
A. Đề bạt 
B. Đề cử 
C. Đề nghị 
D. Đề đạt 
Câu 4. Tìm từ thích hợp để điền vào câu sau đây: Tha ra thì cũng may đời / 
làm ra mang tiếng con người ... 
A. Nhỏ nhoi 
C. Nhỏ nhen 
B. Nhỏ nhẻ 
D. Nhỏ nhẹ 
Câu 5. Chọn từ thích hợp để điền vào chỗ trống trong câu sau: ... của cậu ấy 
là thiếu kiên nhẫn trong học tập 
A. Yếu điểm 
B. Điểm yếu 
Câu 6. Cách viết hoa tên riêng của người trong tiếng Việt là: 
A. Viết hoa phần tên 
B. Viết hoa phần họ và tên 
C. Viết hoa phần tên và đêm 
58 
D. Viết hoa tất cả các chữ cái đầu trong họ-đệm-tên 
Câu 7. Cách viết hoa tên địa danh trong tiếng Việt là: 
A. Viết hoa chữ cái đầu tiên 
B. Viết hoa toàn bộ chữ cái đầu trong tất cả các âm tiết 
C. Viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối 
D. Viết hoa toàn bộ các chữ cái đầu âm tiết và có gạch nối 
Câu 8. Cách viết hoa tên người, tên địa danh của một số dân tộc ít người ở 
Tây nguyên và tiếng nước ngoài là: 
A. Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phân trong tên và có gạch nối 
B. Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận trong tên và không có gạch nối 
C. Viết hoa chữ cái đầu tiên và không có gạch nối 
D. Viết hoa chữ cái đầu tiên và có gạch nối. 
Câu 9. Nối từ ở cột A với ý nghĩa ở cột B sao cho phù hợp 
A B 
1. Mặc cả a. Tưởng nhớ người đã khuất trong tư thế nghiêm trang 
2. Mặc cảm b. Nghĩ rằng mình thua kém người khác và buồn day dứt 
3. Mặc niệm c. Im lặng, tỏ ra mình không liên quan đến việc đó 
4. Mặc nhiên d. Trả giá, thêm bớt từng đồng để mua được rẻ 
Câu 10. Nối từ ở cột A với ý nghĩa ở cột B sao cho phù hợp 
A B 
1. Trung gian a. Tầng lớp giữa trong xã hội 
2. Trung lưu b. Đã quá tuổi thanh niên nhưng chưa già 
3. Trung niên c. Ở giữa, có tính chất chuyển tiếp hoặc nối liền hai sự vật 
4. Trung lập d. Đứng giữa hai bên đối lập, không theo, không phụ thuộc 
bên nào 
ĐÁP ÁN 
Câu 9. 1-d; 2-b; 3-a; 4-c 
Câu 10. 1-c; 2-a; 3-b; 4-d 
1. A 2. D 3. B 4. C 
5. B 6. D 7. B 8. A 
59 
PHỤ LỤC 2 
Hình 1: Em Sầm Thị Hà Trang dân tộc Thái đang trình bày kết quả hoạt 
động của nhóm mình rất tự tin. 
Hình 2: HS dân tộc thiểu số (Thái, Thổ) trong một hoạt động tập thể. 
60 
Hình 3: Khi trò tập đứng lớp 
Hình 4: Cô và trò sau giờ học 
61 
Hình 5: Học sinh dân tộc Thổ, Thái, Kinh tham gia trao đổi học tập 
Hình 6 
62 
Hình 7 
Vẽ tranh tuyên truyền, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Hình 6,7 ) 
Hình 8: Chấm điểm tranh tuyên truyền: Gìn giữ sự trong sáng của 
 tiếng Việt. 

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_phan_mon_tieng_viet_nham_pha.pdf