SKKN Nâng cao chất lượng dạy và học bằng việc sử dụng bản đồ tư ở bộ môn Ngữ Văn

Bản đồ tư duy (BĐTD) là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.

BĐTD ở môn Ngữ văn giúp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng...), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình.

docx 7 trang Trang Lê 20/04/2025 70
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao chất lượng dạy và học bằng việc sử dụng bản đồ tư ở bộ môn Ngữ Văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nâng cao chất lượng dạy và học bằng việc sử dụng bản đồ tư ở bộ môn Ngữ Văn

SKKN Nâng cao chất lượng dạy và học bằng việc sử dụng bản đồ tư ở bộ môn Ngữ Văn
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC BẰNG VIỆC
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ Ở BỘ MÔN NGỮ VĂN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Bản đồ tư duy (BĐTD) là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
BĐTD ở môn Ngữ văn giúp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng...), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Môn Ngữ văn THCS gồm 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Có chung mục đích là giáo dục thẩm mĩ và rèn luyện cho HS các KN đọc, viết, nói, nghe nhưng có vị trí độc lập tương đối và PPDH đặc thù.
a. Văn bản: giúp HS biết cách đọc để hiểu cho được giá trị của mỗi văn bản thể hiện qua cái hay, cái đẹp trong nội dung và hình thức thể hiện của văn bản đó. Cái hay, cái đẹp trong nội dung và hình thức thể hiện của văn bản là cái duy nhất không lặp lại, biểu hiện tối đa nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
b. Tiếng Việt: Hình thành ở HS năng lực sử dụng thành thạo tiếng Việt với bốn kĩ năng cơ bản là: đọc, viết, nói, nghe.
Giúp cho HS có những hiểu biết về ngôn ngữ Tiếng Việt, có ý thức sử dụng và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Dạy Tiếng Việt thông qua:
+ Từ: nghĩa, từ loại, các phép tu từ, cấu tạo, chức năng,...
+ Câu: Các loại câu, dấu câu, các thành phần của câu, cách sử dụng và liên kết các câu,...
+ Đoạn văn: nhận thức về cách viết một đoạn văn, liên kết câu và liên kết đoạn văn.
c. Làm văn: giúp HS nhận biết các loại văn bản, đặc điểm, chức năng cách thức tạo lập văn bản theo từng loại thể.
- Phân môn Làm văn ở THCS:
+ Văn nghệ thuật (miêu tả, tự sự, biểu cảm)
+ Văn nghị luận (chính trị - xã hội, văn học)
BĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả.
BĐTD có thể sử dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ. hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy.
Có thể tóm lược tổ chức hoạt động dạy học với BĐTD như sau:
BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
3.1 Một số hình thức ứng dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ quá trình dạy học
a. Dùng BĐTD để dạy bài mới:
Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó HS sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
Ví dụ:
Khi học bài “ So sánh”, đầu giờ GV cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em vẽ, sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận, qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.
BĐTD minh hoạ
b. Dùng BĐTD để củng cố kiến thức
Sau mỗi tiết học, sau mỗi chương, phần.. .giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Ví dụ:
Khi dạy phần từ loại Tiếng Việt, cho học sinh vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có 1 tập BĐTD về các từ loại Tiếng Việt: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, quan hệ tự, trợ từ, thán từ.. Học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại Tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có. Sau khi có một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD sẽ cho một học sinh khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung ... Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh khác và ghi thêm các chú thích. rồi thảo luận chung trước lớp để hoàn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em.
BĐTD về từ loại Tiếng Việt:
BĐTD phân loại kiểu câu theo mục đích nói
Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic:
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa... hoặc để tư duy một vấn đề mới. Qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
- Học sinh có thể trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập.
3.3 Một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD:
Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV.
Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn bước đầu có những kết quả khả quan. Bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn, Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học Tiếng Việt.
5. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT:
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở một số tiết học cho thấy, GV cần sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
Trước đây, các tiết ôn tập chương một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,. và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình... có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH.
Người giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Do đó muốn ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp hiệu quả thì người giáo viên phải có kiến thức và kĩ năng sử dụng BĐTD tốt.
- Nhiệt tình, say mê với nghề, tận tuỵ với học sinh.
- Luôn tạo hứng thú trong giờ học (đặc biệt là các tiết tập làm văn- luôn luôn bị coi là khó và khô) bằng các hình thức như: thi giữa các nhóm, tổ, tổ chức các trò chơi, tạo các tình huống.để học sinh có hứng thú và yêu thích môn học hơn.
Người viết
Lê Thị Thùy Dương

File đính kèm:

  • docxskkn_nang_cao_chat_luong_day_va_hoc_bang_viec_su_dung_ban_do.docx
  • pdfSKKN Nâng cao chất lượng dạy và học bằng việc sử dụng bản đồ tư ở bộ môn Ngữ Văn.pdf