SKKN Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Công Trứ, tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được trích tuyển trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11, Tập 1

Nho giáo là hệ thống tư tưởng lớn khởi nguồn từ Trung Hoa, và có sức lan tỏa mạnh trên hầu hết khu vực văn hóa Á Đông. Đời sống văn hóa - chính trị các nước Á Đông hầu như luôn có dấu ấn của tư tưởng Nho giáo. Sức lan tỏa của hệ thống học thuyết này không chỉ ở thì quá khứ mà còn nối tiếp ở thì hiện tại và cả trong tương lai.

Nhưng, bất kì hệ thống tư tưởng hay học thuyết nào cũng không bao giờ là một thực thể tĩnh, mà luôn vận động cùng với sự chuyển dịch của đôi cánh thời - không như một nguyên lí chung của mọi sự tại tồn. Nho giáo cũng là một hệ thống tư tưởng luôn vận động qua quá trình phát triển và truyền bá của mình. Nhưng, trong suốt cả thời kì văn hóa trung đại (trung cổ phương Đông), Nho giáo vẫn chưa phải là có những đổi thay mang tính chất biến đổi hệ hình tư tưởng, cách tiếp nhận tư tưởng và hành xử của nhà nho vẫn xoay quanh hai thái cực xuất - xử; hành - tàng. Nhưng, đến thời cận đại, xã hội phong kiến phương Đông diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, đã làm xuất hiện mẫu hình nhà nho mới, “đọc sách thánh hiền nhưng suy nghĩ theo lối thị dân”. Và từ đây, đời sống văn học Việt Nam đã bắt đầu có những biến đổi mang tính chất thay đổi hệ hình, xuất hiện những nhà nho với những tư tưởng phi truyền thống. Chính điều này đã tạo ra những thay đổi sâu sắc và thú vị trong văn học.

Nếu nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm của các nhà nho Việt Nam (và cả các nước thuộc khu vực văn hóa Hán) trong thời kì cận đại - những nhà nho ảnh hưởng lối suy nghĩ và cách sống của tầng lớp thị dân - mà không định hình được những đặc trưng tư tưởng và thế giới quan của họ, thiết nghĩ sẽ không phát hiện ra được phần tinh túy và thú vị nhất trong sáng tác thơ văn của các nhà nho này. Bởi vì, họ không thuộc típ người hành đạo mà cũng chẳng phải là con người ẩn dật. Họ là những con người, những nhà nho tài tử đa tài và đa tình.

Trong việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm thơ văn của lớp nhà nho tài tử ở Việt Nam (cụ thể qua ba tác giả là Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và Tản Đà), nếu không hiểu những đặc thù tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của họ, sẽ không giải mã được những đặc trưng thẩm mỹ cốt lõi nhất trong các sáng tác nghệ thuật. Cũng do vậy, người viết chuyên đề cố gắng trình bày những đặc trưng cơ bản trong tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của nhà nho tài tử và sự thể hiện trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ để thấy những đổi thay và đóng góp trong tư tưởng và nghệ thuật của lớp nhà nho tài tử. Khi thấy được những đặc thù này, người nghiên cứu và giáo viên giảng dạy sẽ đưa tác phẩm đến với vị trí đích thực của nó trong chân trời nghệ thuật, tiếp nhận tác phẩm đúng với đặc trưng thẩm mỹ vốn có của nó, tránh những cách nhìn phiến diện và thiếu cơ sở khoa học. Và cụ thể nhất, giáo viên sẽ giảng dạy hiệu quả hơn một tác phẩm rất đặc sắc của Nguyễn Công Trứ trong chương trình Ngữ văn lớp 11: tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng”.

doc 13 trang Trang Lê 24/09/2025 270
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Công Trứ, tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được trích tuyển trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11, Tập 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Công Trứ, tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được trích tuyển trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11, Tập 1

SKKN Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Công Trứ, tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được trích tuyển trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11, Tập 1
n này.
	Chúng ta hẵn sẽ không khó khăn gì để tìm kiếm các luận đề có vẻ như liên quan tới văn chương như “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ minh đạo”, “thi dĩ ngôn chí”. Nhưng, theo Trần Ngọc Vương, người đang có uy tín và tiếng nói uy quyền vào bậc nhất trong nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, thì những khái niệm “văn” trong các luận đề ấy không phải đồng nhất với văn học hay sáng tác văn học. Giữa chúng có khoảng cách xa vời. Lại nữa, các nhà Nho chính thống bị chi phối bởi quan niệm hạ thấp văn chương từ Khổng Tử khi đức thánh khả kính của chúng ta cho rằng “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ”. Có nghĩa là văn chương là thứ cuối cùng trong đời sống tinh thần của xã hội, vì nó chỉ để phục vụ cho mục đích chơi.
	Nhưng, người tài tử khi đã xem xem tài năng là cốt tủy của sự khẳng định bản ngã thì việc thể hiện tài năng văn chương luôn là một yêu cầu có tính tiên quyết. Do vậy, sáng tác văn chương có một sức hút mãnh lực với các nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ cũng không nằm ngoài qui luật đó.
	Với Nguyễn Công Trứ, những tác phẩm văn chương ông để lại cho đời không phải là những tác phẩm cử tử, mà đó là những tác phẩm viết như một cách chơi ngông để khẳng định cái tài và cá tính của mình. Những “Hàn nho phong vị phú”, “Nợ phong lưu”, “Nợ tang bồng” và cuối cùng phải kể đến là “Bài ca ngất ngưởng” đã chứng minh cho một quan niệm mới về thiên chức văn chương của Hi Văn. Với những nhà nho tài tử như ông, văn chương không đơn thuần để nói chí, nói đạo mà quan trọng nhất, để thể hiện tài năng và cá tính của mình. Bởi trong thơ ông, có những lúc thể hiện một ý chí bao trùm và dung nhiếp thiên hạ, nhưng đó cũng là cái chí phi truyền thống, chí làm một anh hùng thời loạn, kiểu như:
	“Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ
	Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
	Chí những toan dời núi lấp sông
	Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ”
	(Chí nam nhi)
Và ngay cả cái đạo mà nho giáo truyền thống đề cao, ông cũng từng giễu cợt:
	“Mất việc toan giở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi phân bất phú”
	(Hàn nho phong vị phú)
	Với những nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, văn chương có một vị trí quan trọng vào bậc nhất để thể hiện tài năng là chí hướng của mình: chí được “thảnh thơi thơ túi rượu bầu” (chúng tôi dùng văn chương với nghĩa là những sáng tác không thuộc thể loại quan phương, không phải là các sáng tác khoa cử mang tính chất cầu công danh). Qua văn chương, bằng văn chương, người tài tử có thể thị tài, nói lên lí tưởng được du hí, rong chơi của mình:
	“Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương,
	Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước
	Sực nhớ kẻ quày ngọn giáo vịnh câu thơ thuở trước
	Nghĩ sự đời mà cám nỗi phù du!”
Khi các nhà nho tài tử xem rong chơi, thậm chí hành lạc là lí tưởng cuộc đời khi đã “trang trắng” nợ tang bồng, thì văn chương là địa hạt quyết định nhất để người tài tử khẳng định mình. Chính các nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ là những người đã đẩy văn chương lên một vị trí cao hơn trong đời sống xã hội, hay nói cách khác, trả văn chương về đúng chỗ và gọi đúng tên của nó. Bởi với người tài tử, văn chương có vị trí quan trọng bậc nhất trong đời sống tinh thần chứ không phải là thứ xếp sau cùng như những nhà nho chính thống từng quan niệm.
2.2. Lí tưởng người anh hùng thời loạn
	Hình tượng người anh hùng thời loạn là một hình tượng có cả quá trình lịch sử phát triển và vận động trong văn học trung đại từ thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX. Theo Trần Ngọc Vương, giai đoạn này có cả “một chuỗi hình tượng bắt đầu từ hình tượng Khổng Minh trong “Ngọa long cương vãn” và khép lại bởi hình ảnh kẻ đại trượng phu “người anh hùng tư kiếm” trong thơ Nguyễn Công Trứ”[5; 98]. Hình tượng này đã kéo vào quỹ đạo của nó những tác phẩm vào loại kinh điển như “Chim trong lồng”, của Nguyễn Hữu Cầu, “Trương Lương hầu phú” với hình tượng Trương Lương của Nguyễn Hữu Chỉnh, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với hình ảnh Từ Hải, “Hoàn Lê nhất thống chí” của Ngô Gia văn phái với hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ, “Tài tử đa cùng” của Cao Bá Quát...
	Với riêng Nguyễn Công Trứ, ông sinh năm 1778 và mất năm 1858, có nghĩa là ông lớn lên khi cục diện chính trị trong nước đã đi vào ổn định, đất nước đã đặt dưới quyền kiểm soát của triều Nguyễn. Cha Nguyễn Công Trứ là một cựu thần của nhà Lê, từng hưởng ứng chiếu cần vương phò Lê, nhưng chỉ là một viên quan cấp thấp, hầu như không có vai trò gì trong công cuộc phò Lê. Hi Văn cũng đứng ngoài phong trào khởi nghĩa của Nguyễn Huệ. Rồi năm 1802, khi lần đầu Nguyễn Gia Long ra Bắc, ông đã đón dâng “Thái bình thập sách”, nhưng mãi đến năm 1819 ông mới thi đỗ Giải nguyên. Nhưng, sự kiện năm 1802 đã chứng tỏ rằng ông có một tham vọng dựng thành nghiệp lớn.
	Nguyễn Công Trứ ra làm quan khi triều đình nhà Nguyễn đã xây dựng được nền quân chủ vững vàng của mình, mọi lực lượng đối lập đều đã bị đẩy lùi và không còn thế lực nào có thể dòm ngó ngôi thiên tử. Những biểu hiện phản loạn, dầu nhỏ nhất hay đôi lúc chỉ là những suy diễn từ những căn cứ mù mờ nhất cũng phải nhận những hình phạt thảm khốc. Điển hình như cái chết của Đặng Trần Thường, sự việc đóng cùm lên mộ công thần khai quốc Lê Văn Duyệt, hay chỉ vì những câu thơ có khẩu khí khác thường mà cha con công thần Nguyễn Văn Thành phải trả giá bằng tính mạng... Ấy vậy mà trong thơ Nguyễn Công Trứ vẫn có những lúc thể hiện lí tưởng về một anh hùng thời loạn rất điển hình:
	“Tài kinh luân xoay dọc xoay ngang
	Cơ điều đạc quân ăn quân đánh
	Gọi một tiếng, người đều khởi kính
	Dậy ba quan, ai dám chẳng nhường”
	 (Thơ Tổ tôm)
	Ở đây, lại phải nói rằng, nhà nho tài tử lựa chọn đấng quân vương để phò tá không phải theo quan niệm của những nhà nho cổ điển, mà vượt ra ngoài mọi khuôn phép. Với nhà nho tài tử, họ chọn minh chúa bởi đó là những người “biết nghe, biết sử dụng những những gì họ khuyên nhủ”[5; 101]. Và có lúc, đã có người muốn vượt ra ngoài khuôn khổ của đạo thần tử để tạo lập nên một cơ đồ riêng, thỏa mãn hoài bão của đời mình, kiểu như Từ Hải:
	“Triều đình riêng một góc trời
	Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà”.
	Nhưng, với thời cuộc của Nguyễn Công Trứ, những tham vọng bá vương là hão huyền, và chỉ có thể đối mặt với kết cục bi thảm kiểu như Cao Bá Quát. Tuy vậy, trong thơ Nguyễn Công Trứ vẫn xuất hiện những tứ thơ ngông nghênh vào bậc nhất của một trang anh hùng loạn thế: 
	“ Giắt lõng giang sơn vào nửa túi
	Rót nghiêng phong nguyệt cạn lưng bầu”
	(Hành tàng)
	Vậy rõ ràng, trong tư tưởng của Hi Văn, vẫn có một vị trí cao tột cho hình ảnh người anh hùng thời loạn. Có điều, ông đã tìm được mảnh đất màu mỡ để thể hiện tài năng của mình và ông đã sử dụng hết công suất tài trí của mình cho ba triều vua kế tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Nội lực trí tuệ và tư tưởng của ông đã được tận dụng tối đa nên ông không thể và tự biết không thể trở thành một người vượt quá quy tắc luật chơi để nhận lấy kết cục như Cao Bá Quát.
	Xuất chính, bước vào trò chơi thiên tử nhưng lại tin theo lí tưởng người anh hùng thời loạn, Nguyễn Công Trứ vẫn tuân thủ luật chơi, dẫu có lúc dám giỡn mặt vương quyền và cũng có lúc hoảng sợ vì bị buộc tội mưu phản, bị đóng gông giải về kinh. Tuy vậy, cái lí tưởng người anh hùng loạn thế đã được hoán chuyển thành tài năng của một ông quan tài giỏi vào bậc nhất của triều Nguyễn và đóng góp nhiều cho lịch sử dân tộc. Cuối đời, ông vẫn tự hào tổng kết đời mình rằng:
	“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
	Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
	Lúc bình Tây, cờ đại tướng
	Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”
	(Bài ca ngất ngưởng)
	Tất cả tài thao lược của Nguyễn Công Trứ giúp chúng ta có một nhân vật vào loại kiệt xuất của lịch sử nước nhà, có lẽ đều được lấy nội lực và hoán chuyển nội lực từ lí tưởng người anh hùng thời loạn của ông.
Chương 3: Sự đổi mới ngôn ngữ và thể loại trong sáng tác của nhà nho tài tử qua trường hợp Nguyễn Công Trứ
3.1. Sự đổi mới ngôn ngữ
	Tất cả chúng ta đều thừa nhận rằng: ngôn ngữ và thể loại là hai yếu tố cụ thể nhất để đo trình độ phát triển của văn học một dân tộc. Sứ mệnh của một nền văn học đặt lên đôi vai đội ngũ tác giả là biến ngôn ngữ dân tộc thành ngôn ngữ văn học.
	Với người Việt, bốn thế kỉ đầu khi đất nước giành được độc lập, ta đã hoàn toàn sử dụng chữ Hán trong sáng tác thơ văn. Nhưng, từ giai đoạn vãn Trần, chữ Nôm đã được sử dụng thành phong trào trong sáng tác thơ phú. Thời Lê - Trịnh, chữ Nôm vẫn được triều đình phong kiến tạo điều kiện để phát triển trở thành thứ chữ của người Việt. (Ở đây, chúng ta không nên nhầm lẫn rằng triều đình phong kiến dị ứng và kìm hãm chữ Nôm, họ chỉ cấm các văn hóa phẩm “đầu đường xó chợ” viết bằng chữ Nôm có hại cho thuần phong, bởi ngay cả những sắc chỉ cấm đó cũng được viết bằng... chữ Nôm).
	Dẫu sao, chữ Nôm cũng không phải có vị trí chính thống trong quan niệm của các nhà nho cổ điển, nhưng chính điều này cũng đã là lí do mà những tài tử như Nguyễn Công Trứ sử dụng một cách tối đa để thể hiện sự vượt thoát ra ngoài khuôn khổ và qui chuẩn của mình. Những “Hàn nho phong vị phú”, “Chí nam nhi”, “Nợ phong lưu”, “Còn nhiều hưởng thụ”, “Tang bồng là nợ”, “Vịnh tì bà”, “Duyên gặp gỡ”... đều sử dụng chữ Nôm một cách tinh tế và sắc sảo, biến chữ Nôm thành một ngôn ngữ văn chương thực thụ.
	Với việc sử dụng chữ Nôm trong các bài hát nói như “Bài ca ngất ngưởng”, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện nhu cầu đưa ngôn ngữ nói, ngôn ngữ dân tộc vào văn chương của người Việt. Với những câu như “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” hay “Đỡ mồ hôi võng lác, quạt mo/ Chống hơi đất dép da, guốc gỗ”, ông đã đưa ngôn ngữ dân tộc, thậm chí là những từ ngữ thô kệch bình dân thành thứ ngôn ngữ văn chương thứ thiệt.
Nếu không có một xu hướng từ trung tâm hướng ra ngoại biên trong đời sống tư tưởng chỉ có ở những nhà nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, làm sao ngôn ngữ dân tộc chúng ta trở thành một thứ ngôn ngữ văn chương?
3.2. Sự đổi mới thể loại
	Như chúng tôi đã khẳng định, ngôn ngữ và thể loại là hai yếu tố cụ thể nhất để đo trình độ phát triển của văn học một dân tộc. Sự phát triển của văn học dân tộc ta trước thời Hậu Lê, chỉ sử dụng những thể loại đã hoàn thiện của văn học Trung Quốc. Điều này có lợi điểm là chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta cho ra đời nhiều tác phẩm đạt đến trình độ cao, có thể sánh ngang với các tác phẩm mà chúng ta chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tuy vậy, điều này vẫn có mặt trái của nó là “dễ dàng làm nảy sinh những mặc cảm tự ti, những định kiến vọng ngoại, ức chế những tìm tòi, phát kiến bản địa” [5; 153]. Những con người tinh anh nhất của đất nước đã cố công tạo lập những thể loại riêng của người Việt để khẳng định tính độc lập về văn hóa và nghệ thuật.
	Những thể nghiệm của Nguyễn Trãi ở hình thức câu thơ lục ngôn xen vào các câu trong một bài thơ thất ngôn Đường luật là sự cách tân đáng kể, tiếc rằng đã không được kế thừa trong các giai đoạn sau. Với thể loại văn học đặc thù của dân tộc, thì truyện thơ và hát nói là điển hình nhất.
	Riêng với thể hát nói, nó phù hợp với triết lí hành lạc của các nhà nho tài tử, được trình bày trong những lúc đắm say lạc thú, nên đã được họ phát triển lên tới đỉnh cao. Và, những tác phẩm hát nói của Nguyễn Công Trứ có thể xem là đã đưa thể loại này phát triển đến mức hoàn thiện.
	Thể hát nói là thể loại văn học đặc thù của người Việt Nam, nó cũng là thể loại phi chính thống, ngoại biên trong đời sống văn học đương thời, nhưng, bằng tài năng và cá tính của những nhà nho tài tử - những người thường thích hợp với những gì nằm ngoài khuôn khổ - hát nói đã làm một cuộc chuyển di vào trung tâm đời sống văn học bởi đã kết tinh trong lòng mình những tư tưởng triết lí thâm viễn và hình thức nghệ thuật độc đáo của thời đại.
C. KẾT LUẬN
	Cuộc đời 80 năm của Nguyễn Công Trứ đã biến ông thành một tên tuổi sáng chói của dân tộc. Những đóng góp to lớn nhất của Nguyễn Công Trứ chưa hẵn đã phải chỉ trên phương diện văn chương, mà bằng cuộc đời “ngang dọc dọc ngang” của mình, ông đã để lại dấu ấn sâu sắc của mình trên nhiều mặt của lịch sử đất nước: từ chính trị, văn hóa, quân sự, văn chương, địa lí... Đây là người đã lớn tiếng nhất trong việc nói lên chí làm trai và lí tuởng, khát vọng của đời mình, nhưng cũng là một người vào loại hiếm hoi đã làm được hầu như tất cả những gì mình đã nói. Đánh giá đúng những đóng góp của Nguyễn Công Trứ cho đất nước là một việc làm đến nay, vẫn không phải là dễ. Chỉ riêng trên lĩnh vực văn học, nhận diện đúng những giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật các sáng tác của Nguyễn Công Trứ là điều mà chúng ta chưa thể làm hết. Nó bắt nguồn từ tính chất phức tạp trong cuộc đời và quá trình xuất chính của ông, cũng bắt nguồn từ sự đa dạng trong đời sống tư tưởng của một xã hội đang dần thay đổi xu hướng vận động và phát triển của mình, khi mà con người được giáo dục theo sách vở của thánh hiền nhưng hoàn cảnh sống và những lạc thú của trần gian đang cứ ngày một lồ lộ trước mắt, gọi mời họ thụ huởng; những biến động bão táp của lịch sử tha thiết khẩn cầu những con người tài hoa nhât của thời đại trổ tài lương đống.
	Những vấn đề hết sức thú vị và phức tạp trên của lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX nói chung và sáng tác văn chương của Nguyễn Công Trứ nói riêng đã vẫy gọi chúng tôi đến với chuyên đề này. Trong chuyên đề này, chúng tôi đã cố gắng đến mức có thể để tóm lược những nét chính của hệ hình lí thuyết nhà nho tài tử; cũng đã cố gắng làm sáng tỏ những đóng góp của thơ văn Nguyễn Công Trứ trong quan niệm nghệ thuật và sự đổi mới ngôn ngữ và thể loại. Với chuyên đề này, người viết cố gắng đưa vào một cách tiếp cận và giải thích khá khác biệt về những sáng tác của Nguyễn Công Trứ từ một bình diện theo người viết là rất thú vị nhưng còn chưa được chú ý: bình diện loại hình nhà nho tài tử. Hướng tiếp cận này sẽ góp phần giải thích cho cuộc đời, cội nguồn tư tưởng và đặc sắc thơ văn Nguyễn Công Trứ một cách khách quan và có cơ sở, và đặc biệt nhất, có thể tìm ra những điểm khá thú vị còn ẩn tàng trong sáng tác của ông.
	Tất nhiên, kiến thức thì viễn thâm quảng bác mà những hiểu biết của người viết chuyên đề này chỉ như nắm lá nhỏ trong lòng bàn tay, nên người viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai lầm, nên, người viết rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn đọc để mình có thể chấn chỉnh những thiên lệch và vươn đến những tri thức viên toàn.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Trọng Kim, 2001, Nho giáo, NXB Văn học, Hà Nội.
2. Nguyễn Lộc, 1999, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên),2009, Ngữ văn 11 tập một, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Phan Ngọc, 2000, Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Thanh niên.
5. Trần Ngọc Vương, 1999, Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Trần Ngọc Vương, 2010, Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, NXB Tri thức, Hà Nội.
7. Trần Ngọc Vương, 1999, Văn học Việt nam dòng riêng giữa nguồn chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

File đính kèm:

  • docskkn_nghien_cuu_sang_tac_cua_nguyen_cong_tru_tac_pham_bai_ca.doc