SKKN Nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian của người Khmer Bình Phước đưa vào giảng dạy và học tập môn Giáo dục địa phương - Chủ đề 3 Lớp 6 và Lớp 7
Môn Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí, tầm quan trọng hàng đầu trong giáo dục trung học cơ sở (THCS). Ngoài chức năng công cụ, môn Văn cũng là môn học góp phần rất lớn vào việc hình thành và phát triển các năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng giáo dục tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của người học.
Mặt khác môn Giáo dục địa phương là nội dung bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) năm 2018. Môn học cung cấp cho học sinh kiến thức hữu ích về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước... Nội dung được xây dựng theo hướng phát triển năng lực thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, thực tế của một tỉnh trên cơ sở tích hợp các vấn đề cơ bản của tự nhiên, địa lý, lịch sử, văn hóa. của tỉnh, gắn lý thuyết với thực hành, gắn nội dung với thực tiễn.
Mặc dù có vị trí, chức năng quan trọng đặc biệt như vậy nhưng hiện nay đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh (HS) không thích học môn Ngữ văn, trong đó có ngữ văn dân gian của các dân tộc thiểu số ở Bình Phước. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy phần văn học dân gian của các dân tộc tỉnh Bình Phước, trong đó có văn học dân gian của người Khmer nội dung còn khiêm tốn, chưa phong phú, đa dạng, còn thiếu nhiều phần.
Bình Phước là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó có các dân tộc đã sinh sống lâu đời ở vùng đất này như: Khmer, Stiêng, M’nông... Các cộng đồng dân tộc có nền văn hóa phong phú, đa dạng, phản ánh đặc trưng của cư dân sinh sống lâu đời ở vùng đất Bình Phước. Tỉnh cũng đã ban hành các chính sách nhằm giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, đặc biệt là giáo dục tình yêu quê hương Bình Phước. Trong lĩnh vực giáo dục, UBND tỉnh Bình Phước đã có kế hoạch số: 258/KH-UBND ngày 21/11/2019 về việc Triển khai thực hiện chương trình GDPT 2018 trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong đó có chương trình giáo dục địa phương cho học sinh trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Dân tộc Khmer ở Bình Phước với dân số gần 20.000 người gồm hai nhóm: nhóm mới từ các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long di cư lên Bình Phước và nhóm cư dân cư trú lâu đời ở Bình Phước. Văn học dân gian của người Khmer ở Bình Phước có khối lượng lớn, có giá trị mang đặc trưng lịch sử địa lý và văn hóa của địa phương.
Quá trình thực hiện công tác giảng dạy môn Giáo dục địa phương lớp 6 và lớp 7, tôi nhận thấy nội dung giảng dạy phần văn học địa phương còn ít. Trong khi đó, nền văn học dân gian của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói chung, văn học dân gian của người Khmer ở Bình Phước nói riêng rất đa dạng, phong phú, chứa đựng nhiều giá trị. Quá trình sinh sống và giảng dạy tại Trường TH&THCS Lộc Khánh, Lộc Ninh, Bình Phước, tôi đã tiếp xúc với người Khmer và nhận thấy văn học dân gian của dân tộc này có giá trị, phù hợp cho việc giảng dạy môn Giáo dục địa phương - Chủ đề 3 cho học sinh. Từ đó, tôi tiến hành nghiên cứu, sưu tầm, xây dựng nội dung và đưa vào giảng dạy trong tiết dạy Chủ đề 3 Truyện dân gian Bình Phước lớp 6 và Ca dao dân ca Bình Phước lớp 7 do bản thân phụ trách. Đây cũng là việc làm nhằm cụ thể hóa chủ trương của UBND tỉnh Bình Phước về việc đưa chương trình giáo dục lịch sử văn hóa địa phương vào giảng dạy tại các trường học trên địa bàn tỉnh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian của người Khmer Bình Phước đưa vào giảng dạy và học tập môn Giáo dục địa phương - Chủ đề 3 Lớp 6 và Lớp 7

rùa với cô Út để chính thức lấy nhau. Trước đó các chị của Út đều được nhà vua cho lấy chồng hết chỉ còn cố Út là lấy rùa thôi. Khi lễ đã xong Nhà vua nói: Mỗi cặp vợ chồng phải đi kiếm cây về làm một ngôi nhà cho xong sớm để chuẩn bị sau này làm lễ mừng thọ cho nhà vua, bởi nhà vua đó cũng già rồi. Rồi vợ chồng các cô con gái liền đi vào rừng chặt cây nhưng loay hoay mãi vẫn chưa làm được. Sáng mai thức dậy thì mọi người lại thấy một ngôi nhà rất đẹp. Nhà vua hỏi: Nhà ai mà thấy đẹp vậy? Lúc này các cô con gái đầu của nhà vua lần lượt trả lời: Dạ nhà của con ạ! Nhà của con ạ! Ai cũng nhận hết. Nhà vua không biết là nhà của ai vì chỉ có một cái thôi. Nhà vua liền lấy một cái niêu đồng bỏ nước vào trong đó rồi cho các con cầm, đi lên nhà. Nếu nước không đổ ra thì là nhà của người đó. Xong cô Hai cầm cái đó đi lên thì nước đổ ra. Rồi đến các cô gái tiếp theo nước vẫn đổ ra. Đến phiên cô Út cầm và nhảy lên thì nước không đổ ra. Trước sự chứng kiến của mọi người trong làng, họ đều vỗ tay và công nhận: Đây là nhà của con Út vì đi lên nước không đổ ra một miếng nào! (Đây là nhà của con rùa do các Chư Thiên đã giúp cho nó). Lúc này nhà vua đã công nhận đó là nhà của con rùa với cô Út, chỉ có các cô chị kia vẫn không tin vì con rùa sao lại biết làm nhà như vậy. Vài ngày sau nhà vua lại đưa ra yêu cầu trong lễ mừng thọ của mình sắp tới phải có thịt heo, thịt nai, cá, mật ong... Nhà vua thích cái gì thì các con phải kiếm được cái đó. Nghe vua nói xong, vợ chồng các cô con gái đầu thi nhau đem chó vào rừng để tìm thịt, tìm cá, tìm mật ong... Còn cô út không đi làm gì hết, chỉ ở nhà ngồi buồn thôi. Nhưng không ai bắt được cái gì. Họ bắt ong bị ong chích, bắt nai bị nay đá... ai cũng sưng mặt mà không được gì hết đành quay về nhà. Sáng sớm hôm sau thức dậy các cô sang nhà nhà con út thì thấy có đầy đủ các thứ nhà vua yêu cầu, có thịt nai, thịt heo, cá, mật ong ...để sẵn trước nhà. Lúc này nhà vua lại hỏi: Những thứ này là của ai? Các chị kia không dám nhận của mình vì sợ giống như lần trước. Cô út liền trả lời: Dạ đây là đồ của chồng con! Cha yêu cầu cái gì thì chồng con đều làm đúng như vậy! Đã đến ngày làm lễ mừng thọ cho nhà vua ra. Nhà vua mời tất cả người dân trong làng đến tham dự. Buổi lễ được tổ chức trong 7 ngày có múa hát, đánh các nhạc cụ rất vui. Vợ chồng các chị và cô Út đều đi tham dự hết. Trong khi đó con rùa không đi được nên ở nhà. Ngày đầu tiên của buổi lễ con rùa nghe đánh trống, hát hò vui quá. Nó bắt đầu biến thành con người để đi tham gia lễ hội. Rùa lấy cái váy của vợ phơi ở ngoài sân mặc, đi vào trong đó múa hát với người ta rất vui. Lúc khát nước Rùa đi đến xin nước của cô Út thì các chị ào chạy tới: Ơ có nước đây nè! Chị cho nè! (Bởi các cô thấy có một chàng trai rất đẹp ai cũng mê mà không biết đó là chồng của cô út.) Nhưng chàng không nhận chỉ xin nước của Cô út thôi. Cô út liền nói: Không nước này chỉ để dành cho chồng thôi! Tại chồng ở nhà chỉ là một con rùa tội nghiệp lắm không biết làm gì! Rùa nghe thấy vậy cũng im lặng. Cô Út cũng nghi vì thấy rùa là người lạ ở đâu đến. Đến ngày thứ hai trước khi đi dự lễ cô Út đã lấy vôi ăn trầu của người già đánh dấu vào tấm váy rồi đem phơi ở ngoài. Rùa cũng lại thấy lễ hội vui quá nên biến thành người lấy tấm váy mặc vào đi đến buổi lễ ca hát trong đó. Cô Út thấy nghi nghi : "Sao mà cái váy này giống như cái váy mình đánh dấu ở nhà”. Quan sát kỹ thì cô Út chắc chắn đó là tấm váy của mình. Cô liền chạy về nhà đi tìm con rùa đó nhưng không thấy rùa đâu. Cô chỉ thấy cái vỏ của nó thôi nên cô Út biết chồng mình đã biến thành người. Cô liền cầm lấy vỏ rùa đập và đem đi đốt bỏ. Lúc này chồng của Út cũng về, liền chạy theo và nói: Em ơi đừng có đốt áo của anh! Đốt áo của anh như vậy thì anh không có gì mặc lạnh lắm! Cô út liền nói: - Đây không phải là áo, đây là cái vỏ không phải áo! Xong cô đốt bỏ. Rùa nói: Đây là tài sản của anh nếu em đốt như vậy thì anh không có gì mặc nữa lạnh lắm! Tối ngủ cô Út nói: Nếu mà lạnh thì vô đây ngủ đắp mền, em sẽ ôm cho anh bớt lạnh! Thế là hai người ngủ đến sáng. Các cô chị dậy hết rồi mà không thấy con út đâu. Các chị đó đi tìm chỗ cái nhà của cô út. Khi vào trong nhà, họ thấy cô út vẫn còn đắp mền ngủ. Các chị đó liền kéo cái mền ra thì thấy hai người đang ngủ, thấy chồng của út đẹp. Bắt đầu các chị lại mê chồng của cô út. Các chị bắt đầu bớt yêu chồng của mình lại. Họ đều thắc mắc: Ủa tại sao con rùa giờ biến thành con người rất đẹp, đẹp hơn cả chồng của mình! Trở về nhà mình, các chị cảm thấy không thích chồng mình mà thích chồng của cô út. Thế là vợ chồng giận nhau cãi nhau tùm lum. (Họ không biết rùa là con của Chư Thiên). Bắt đầu từ ngày đó trở đi, hai vợ chồng Út sống với nhau càng thêm hạnh phúc. Mọi thứ trong nhà từ cái nhà đến cái võng nằm cũng bằng vàng. Cái võng chồng của Út thường cột dưới cây đa bên suối để nằm ngủ hàng ngày. Rồi đến ngày chồng Út phải đi làm ăn xa. Chàng đi bán võng bằng vàng trên chiếc tàu lớn. (Chồng út là con của nhà vua cao hơn cha của út). Chàng đã dặn vợ mình rằng: Khi mà có người đến hỏi, mời út đi đâu này kia thì út đừng có đi, chỉ ở nhà , không đi đâu hết, không đi theo người này xem cái này cái kia! Nếu ai rủ đi thì út nói là chồng đã rủ đi đến đó, đã biết rồi! Thế nhưng cái võng cột bên gốc đa chàng lại quên tháo ra mang lên nhà cất mà út thì cũng không biết cái võng đó. Ở nhà một mình út luôn nhớ lời chồng dặn. Một hôm chị hai của út xuống thăm và rủ út: Út ơi đi coi này, coi con quạ phía sau nhà này! Út nói: Chỗ đó chồng em dắt đi coi rồi! Chị của Út lại nói: Út ơi đi chơi bên thác này! Út lại trả lời: Chỗ đó chồng em dắt đi chơi rồi! Lúc này chị của Út thấy cái võng vàng ở dưới cây đa. Chị ta liền nói: Út ơi đi coi cái võng vàng này đẹp lắm! Do cái này út chưa biết, chưa thấy, chồng cũng chưa dặn nên đã đi theo chị. Lúc này trên người út mặc quần áo bằng vàng tay đeo nhẫn vàng. Xuống tới nơi chị út nói: Cái võng này chỉ có những người mặc đồ giống út mới ngồi chỗ đó được ! Còn chị mặc quần áo bình thường không ngồi vào được! Chị liền hỏi mượn đồ của cô út. Út tháo nhẫn vàng quần áo vàng để cho chị. Còn út mặc lại đồ của chị. Khi đã thay xong chị út nói : Bây giờ cái võng này cho chị ngồi trước nha! Út hỏi : Ủa tại sao vậy? Tại vì chị phải ngồi trước út mới được! Chị trả lời. Và rồi chị út lên võng ngồi. Út hỏi: Vậy giờ em làm gì nữa? Chị út kêu: Út ơi giờ em hãy hát bài này cho chị nghe! "Du dắt du dây A rak đơm chrây Thê rak sa bon anh” (Nghĩa là: Du dắt du dây. Bà bóng ở cây đa này. Hãy bảo vệ cho chị tôi). Khi út hát xong thì chị ta đứng dậy nhường cho út ngồi. Út lại xin: Thôi bây giờ chị đưa đồ lại cho em! Chị út không đưa và nói: Không út ngồi vậy cũng được! (Bởi vậy chị ta ghen ghét muốn dành chồng của Út). Út ngồi lên võng chị ta liền hát: "Du dắt du dây A rak đơm chrây Bon cach ôn anh” (Nghĩa là: Du dắt du dây. Bà bóng ở gốc đa này. Hãy bẻ cổ con út). Vừa hát chị ta vừa kéo võng đi lên đi xuống rồi cắt dây cho út rớt xuống cái hố nước gần đó. Út cứ ngoi lên thì chị ta lại đẩy xuống. Cuối cùng cùng Út rớt xuống hố nước sâu chết luôn. Mục đích của chị ta là khi mà chồng của Út trở về thì nó nằm bên cái võng đó, chồng Út nghĩ mình là vợ, chồng út sẽ chấp nhận lấy mình làm vợ. Khi Út đã chết. Trở về nhà chị ta nói toàn bộ mọi thứ trong nhà Út là của chị ta. Chị ta đều dành hết. Những người bảo vệ trong nhà của cô Út đều biết điều đó nhưng không nói gì hết vẫn bảo vệ bình thường thôi. Một hôm thì chị ta đến bên khung dệt, làm cái khăn nhưng không biết làm nên làm không được. Ngay lúc đó có một con gà trống nhảy lên khung và nói: “ Chak rúc chak aren Chak đel con sen pâu minh cờt” (Nghĩa là: Làm cái khăn đó, kéo đi kéo lại, kéo không đúng khuôn của Út làm). Chị ta tức giận lấy cây dí con gà đó tính đập cho nó chết. Thế là con gà đó chạy đi. (Con gà là do chư thiên đưa xuống để theo dõi Út) Lại nói về Út khi cô rớt xuống hố nước chết. Đến khi nước nhiều thì bộ xương của út theo dòng nước trôi ra tới biển luôn. Từ bộ xương đó mọc lên hai cái bông sen, bông sen lớn là mẹ, bông sen nhỏ là con (khi chết Út đang có bầu là con trai). Khi thấy tàu đi đến, bông sen lớn cất lên tiếng hát để để chồng nhận ra là mình. “ Túc na prep prep Bróc klấp pô triêp Túc nek anh đeng” Nhưng chiếc tàu này không phải nên họ không nhận ra thông điệp đó. Đến chiếc tàu thứ hai, bông sen đó lại cất lên tiếng hát. Lúc này người chồng ở trên tàu đã nhận ra giọng của vợ mình và cho tàu chạy chậm lại, lắng nghe cho thật kỹ thì biết được đó chính là vợ mình và biết vợ đã chết rồi, (do có người sát hại và hiểu lý do vì mình quên dặn là Út đừng có xuống cái võng vàng đó). Chàng liền kêu người bảo vệ xuống bẻ hoa sen đó. Nhưng lạ thay khi họ bẻ thì bông sen cứ chuyển bên này chuyển sang bên kia liên tục như vậy. Cả hai người bảo vệ xuống đều bẻ không được. Họ đã mệt và đói cơm rồi. Chàng liền nói: Em ơi anh đã biết sai rồi! Bây giờ em cho anh vẽ đem về nhà để làm lễ! Hai người bảo vệ lại xuống bẻ nhưng vẫn không được. Cuối cùng chàng phải xuống bẻ thì lại bẻ được và đem đi về nhà. Khi hay tin chàng trở về thì mọi người vui mừng đón tiếp vì chồng của Út đã về. Chị hai của Út mang đồ trang sức của Út chạy ra đón và nói: Chồng về rồi! Chồng về rồi! Chúc mừng chồng về rồi! Chàng liền nói: Xin lỗi đừng kêu chồng như vậy tội nghiệp tôi. Tôi kêu là chị vợ mới đúng! Chị ta liền nói: Chị vợ con mẹ gì! Vợ chồng mình mà! Xong chị ta bắt đầu chửi. Chàng vẫn tiếp tục nói: Thôi đừng gọi như vậy tội nghiệp! Về tới nhà chàng liền kêu người bảo vệ đem hoa sen bỏ vào trong cái hộp bằng vàng rồi đem vào trong nhà và dặn không cho ai biết. Lúc này chị Hai của Út thấy nghi: Đem cái gì vô trong nhà vậy? Chàng kêu người bảo vệ em cái hộp vào trong chỗ hai vợ chồng ngủ. Chị Út đi theo. Chồng Út không cho vô. Chị ta liền nói: Vợ chồng mình mà không cho vô vậy? Đi có mấy tháng mà quên không cho vô à? Trong khi đó người bảo vệ đem hộp vàng đựng hoa sen để vào giường ngủ của hai vợ chồng. Chàng liền lấy lọ nước thần nhỏ vào hoa sen lớn 9 giọt (mẹ) hoa sen nhỏ 7 giọt (con trai). Lúc này hoa sen tươi trở lại. Hoa sen lớn biến thành mẹ, hoa sen nhỏ biến thành con. Khi đã trở thành người bình thường rồi. Út cho người bảo vệ qua kêu chị hai về đây. Lúc này chị Hai tưởng chồng của Út kêu về nên thắc mắc: Sao nói giận chị hai rồi sao nó lại kêu làm gì nữa? Người bảo vệ nói: Cứ đi đi thì chồng kêu! Nhắc đi nhắc lại nhiều lần thế là chị hai đi đến nhà Út. Cô Út nói với người bảo vệ: Anh đi giả muối dùm cho tôi, muối ớt đó, cho nhiều vô! Khi chị hai tới đó. Út lại bắt chị Hai ra đánh trả thù trở lại. Út lấy muối ớt chà xát lên mặt, lên người cho đến chết luôn. Rồi Út cắt tay, cắt chân, cắt đủ thứ, xong bỏ vào trong cái lu để làm mắm. Một thời gian sau, Út cho người bảo vệ đem hũ mắm đến cho cha mẹ mình. Bà nói: Ôi đây là hủ mắm con út đem cho này! Nhà vua vui mừng và nói: Trời ơi thằng Út đi mấy tháng mà chưa có gì hết! Còn chị Hai đi làm có mấy tháng mà đã có mắm về đưa cho mẹ rồi! Hai vợ chồng nhà vua ăn thấy ngon,mỗi lần ăn thì đâu có nhận biết được gì đâu vì nó tan hết rồi. Đến khi cạn, cái đầu lòi ra thì họ mới biết: Đây là con của mình mà! Chắc là chị hai làm hại đến người nào đó thì người ta mới làm như vậy! (Đây là phong tục ngày xưa nếu ai hại người khác thì chỉ có đánh chết thôi chứ không có tù gì hết) Một thời gian sau nhà vua mất do già yếu. Vợ chồng của Út lại trở thành nhà vua cai quản một vùng rộng lớn. PHỤ LỤC 2 MỘT SỐ BÀI CA DAO - DÂN CA MINH HỌA CHO BÀI HỌC LỚP 7 BÀI CA DAO KHMER Ông Kim Dân, sinh năm 1952, ở ấp Hiệp Tâm A xã Lộc Hiệp nói kể Ông Lâm Roi , sinh năm 1944, ở Sóc Lớn xã Lộc Khánh dịch Bài số 1: Bơ koun bok srâu kom chol kon_tuos Chinh chem chruk luok yok brak đôi ngia Dịch nghĩa: Con ơi giã lúa đừng bỏ cám Nuôi heo bán lấy tiền xài khỏe hơn Bài số 2: Bre kh_nơi muok ompi đong Đôi koun chkong muok ompi mê-ba Dịch nghĩa: Rìu không thẳng là do cái cán Con cái hỗn là do cha mẹ Bài số 3: Tuk chia kut khơnh via sna smos Min trâu bong bos sech_kdey prâng Trâu te pdia diêm oy pênh kom hưng Pruos prâng ning preng chi Ku Khnia Krop la_môs bơ kê minh pachanh Dôk thvơ đom ranh rư slo via Tuk chia kro sot tam thom_ma_da Thvơ ma_đêch na ning ban prêng Dịch nghĩa: Dù ông có tức giận Mình nhớ đừng bỏ qua Mình phải thật đề phòng Nằm im, không nói, không xong Thấy ngoại tình không ghen Mình nên giải thích rõ Nghèo khó là bình thường Làm sao cho nó êm BÀI DÂN CA KHMER Ông Lâm Kinh A, sinh năm 1943 và ông Lâm Lúa, sinh năm 1945, ở ấp Sóc Lớn xã Lộc Khánh hát kể; ông Lâm Roi , sinh năm 1944 và em Lâm Tích, sinh năm 1987, ở Sóc Lớn xã Lộc Khánh dịch Bài số 4: Ch_năm ne sch_năm Kồ pliêng ô tro chuc Phum dơng Sro nok Srok dơng miên chây ồ kmeng kmang ơi kiêng Kô Kro Bây Sôt Na mon_trây vi bân tro_peng Khe_chét kđau ngăn khe P-răng Kđau luông Pi_sak Pô thngon pro_sôt đây rơ Pđăm tâu đol neak tưk Se Tưk vưa ongkuon rô_nưa Khlas pchua, khlas ruos, khlas dok klas stung Kon lus tô muôi đak chmous a_vuông Mon ro_nghiêu ta_mông đâk ka_bây tâu pho_chua Pô neang kon tiêp chăp ban kâm_nap tâu tam a_vuông Tâu đok tâu stung đos chos đos lờng Pôm hơi chom ros Som Dông pua chos siet hal phka Chum nô mui ra khdol buok nghiet nghiet chiếc đak ka_rấp Chom nây nú ban chia kâp Ka_rấp nâng ban chia thia Chôk os tâng na ban mui rui ro_tes Chôk os teng nis pênh pênh ph_tes dơng Men hong, men, ban ây Pho_tâl: mướt. ban ây Pa_kot Hô Pa_vắ pa_vun hơi đôch phle la_via Đôch sếc nom knia đôch sva nâng puol Chol Tuol nú chia ro_đek song_rek nú chia ro_đeng S_râu đâk s_râu khleng pênh pênh ph_tes dơng Men hong, men, ban ây Pho_tâl: mướt. ban ây Pa_kot Hô Chau phok nắ ôi khlanh chau kranh nắ ôi puông Mos mui a_rom ban chia khăn chây Mos mui T_sây tom_lay pân đom mesh Pong_kâp mesh chênh p_nenh mesh mok Pro_ênh lơ a_kas chui the reak_sa bây bách the reak_sa ro_hôt tâu đol ro_hot tâu chặp chiêt mui rui ch_năm Men hong, men, ban ây Pho_tâl: mướt. ban ây Pa_kot. Hô Dịch nghĩa: Năm nay năm Hợi Mưa rơi tầm tả Thôn mình có phước Con cháu ơi lùa trâu lùa bò Từ rừng, bưng bàu về nhà Tháng 3 nắng gắt Tháng 4 sấm sét Nhắn người đi chăn Chuẩn bị dây thừng Chuẩn bị cày bừa Người nhổ mạ, kẻ cấy lúa Mướn người tên thằng Vuông Gà gáy đầu tiên dắt trâu đi cày Mướn người tên con Lùn Vác mạ cấy theo thằng Vuông Mướn người tên con Út Rủ nhau xuống đồng nhổ mạ cấy lúa Cấy xuống mọc lên nở bụi nở bông Gió bấc thổi lúa cong đặc hột Lúa lép thành hột Bó đập thành đống lúa Cắt một bụi được một trăm xe Cắt cả ruộng đem về nhà mình Thiệt không? Thiệt! Lấy gì làm bằng chứng! Hô! Cây lúa hột nhiều như chùm sung Chim két rũ nhau như khỉ hú bầy Mình gánh, mình vác Lúa kéo đầy bồ, đầy nhà Thiệt không? Thiệt! Lấy gì làm bằng chứng! Hô! Cá tràu có mỡ, cá rô có trứng Sợi tơ cuốn lại thành vòng Một sợi giá bằng cục vàng Bồ Tát trên trời phù hộ mình Nuôi dưỡng, đùm bọc đến suốt đời Kiếp này, kiếp sau sống trăm tuổi Thiệt không? Thiệt! Lấy gì làm bằng chứng! Hô!
File đính kèm:
nghien_cuu_suu_tam_van_hoc_dan_gian_cua_nguoi_khmer_binh_phu.docx
Nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian của người Khmer Bình Phước đưa vào giảng dạy và học tập môn Giá.pdf