SKKN Phát huy năng lực cảm thụ Văn học cho học sinh Lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi tác phẩm văn học là một viên ngọc sáng trong cuộc sống. Nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống muôn hình vạn trạng đó để các em nói ra, viết ra những điều mà mình đã học, đã cảm nhận được và tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “ bé con giá trị” ? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cô giáo đang tìm cách đi nhẹ nhàng và hiệu quả nhất cho riêng mình. Thật vậy qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy văn, học văn đòi hỏi cả người dạy và người học phải nghiên cứu, tiếp thu nó bằng cả trí óc lẫn tâm hồn. Đặc biệt người thầy giáo phải hướng học sinh đi vào khai thác, phát hiện những điểm sáng về nghệ thuật để từ đó cảm nhận được những cái hay cái đẹp của văn chương, khơi dậy, thắp lên trong các em ngọn lửa của sự đam mê hứng thú thực sự.
Nhà văn Nguyễn Khải đã viết:“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng phải là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc tình cảm chứ không phải là cái tư tưởng nằm đơ trên trang giấy” Có thể thấy việc khai thác, phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật tu từ là một trong những phương pháp giúp học sinh cảm thụ tác phẩm văn học một cách tốt nhất. Từ việc nắm bắt lí thuyết đến quá trình vận dụng trong từng bài tập cụ thể sẽ giúp học sinh phát huy tối đa và có hiệu quả việc cảm thụ văn học qua những đoạn thơ, đoạn văn cụ thể.
Nói đến biện pháp nghệ thuật tu từ đó là phạm vi khá rộng rãi và các em đã được làm quen ở bậc tiểu học như so sánh, nhân hóa…Tuy vậy ở tiểu học các em chỉ mới dừng lại ở mức độ phát hiện, nhận diện chúng thông qua một số ví dụ cụ thể chứ chưa biết vận dụng vào phân tích giá trị biểu cảm của các biện pháp nghệ thuật tu từ để viết nên những đoạn văn, bài văn hay. Chính vì vậy hầu hết các em thường lệ thuộc nhiều vào những bài văn mẫu, bài viết của các em thường mang tính rập khuôn, thiếu tư duy, sáng tạo, thiếu dấu ấn cá nhân. Bước vào lớp 6 là lớp đầu cấp, các em còn nhiều bỡ ngỡ với phương pháp học ở THCS đặc biệt là việc tiếp cận phương pháp học tập bộ môn Ngữ văn hoàn toàn mới so với tiểu học. Là một giáo viên nhiều năm liền được được phân công dạy lớp đầu cấp tôi nhận thấy: Đa số các em nắm các biện pháp tu từ chưa chuẩn xác, còn bị nhầm lẫn giữa các phép tu từ với nhau dẫn đến hiểu sai, vận dụng sai.
Một số em khả năng vận dụng, phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật tu từ trong một số đoạn thơ, đoạn văn còn nhiều hạn chế. Nhiều em trong quá trình viết bài tập làm văn hầu như các em rất ít khi sử dụng biện pháp nghệ thuật tu từ vào bài viết. Chính vì thế bài văn thường rất khô khan, các hình ảnh, sự vật được đề cập đến còn đơn điệu tẻ nhạt, thiếu sức thuyết phục. Để giúp các em phát huy được năng lực cảm thụ văn học thông qua việc phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật tu từ trong những đoạn văn thơ cụ thể và biết cách vận dụng linh hoạt, thành thạo các biện pháp tu từ trong khi viết bài tập làm văn, giúp các em học tốt hơn bộ môn Ngữ văn 6 tôi mạnh dạn xây dựng đề tài có nội dung: “ Phát huy năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ ”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Phát huy năng lực cảm thụ Văn học cho học sinh Lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ

iện pháp nghệ thuật tu từ, cần tránh mắc các lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu; tránh diễn giải dài dòng hoặc sa vào phân tích quá kĩ. * Rèn kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu: Muốn viết được câu văn hay, ngoài việc dùng từ chính xác, câu văn cần phải có hình ảnh. Có hình ảnh, câu văn sẽ có màu sắc, đường nét, hình khối,... Để câu văn có hình ảnh, cần lưu ý hướng dẫn HS sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, ẩn dụ ...Các hình thức nghệ thuật này sẽ làm cho câu văn trở nên sinh động hơn rất nhiều. Việc rèn kĩ năng diễn đạt trong bài miêu tả cảnh cần đặc biệt chú ý đến việc sử dụng phép so sánh trong mỗi câu văn. Có thể coi so sánh là việc tạo những nốt luyến cho bản nhạc ngôn từ, những nét đậm cho bức tranh ngôn ngữ. Giáo viên cần hướng cho học sinh luyện tập cách dùng nhiều từ so sánh khác nhau sao cho thật đa dạng, phong phú, gợi cảm. Ví dụ: - Những lá sen già khum khum chẳng khác những chiếc thúng con đựng đầy ắp nắng chiều thu. - Cây bàng già sừng sững uy nghiêm như một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên. - Dòng sông quê dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình. - Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm vàng ai bỏ quên giữa cánh đồng lúa chín. ( Theo Vích-to Huy-gô) Ngoài ra cũng cần cho học sinh rèn kĩ năng sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ trong diễn đạt để tạo sự sinh động, hấp dẫn cho cảnh được tả. Ví dụ: Giáo viên đưa ra một số câu văn miêu tả, yêu cầu học sinh viết lại có phép nhân hóa. - Về mùa hè nước sông trong xanh màu ngọc bích -> Về mùa hè dòng sông khoác lên mình một chiếc áo màu xanh ngọc bích. - Bông hoa hồng xinh đẹp. ->Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm toả hương thơm. - Với cùng một nội dung thông báo, cùng sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa song với mỗi cách viết lại có một cách hiểu khác nhau. Ví dụ: Với nội dung: Con sông chảy qua một cánh đồng, ta có thể diễn tả bằng nhiều cách như sau : - Con sông nằm uốn khúc giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp thuần tuý). - Con sông khoan thai nằm phơi mình trên cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp khoẻ khoắn). - Con sông hiền hoà chảy qua cánh đồng xanh mướt lúa khoai. ( Vẻ đẹp hiền hoà). - Con sông lặng lẽ dấu mình giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp trầm tư). Như vậy, ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ngụ ý của người viết.Với mỗi một cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau. *Rèn kĩ năng viết đoạn văn Cái hay của một đoạn văn thể hiện rõ nét nhất ở ý. Ý càng mới mẻ, càng sâu sắc, độc đáo thì đoạn văn càng có sức thuyết phục. Ý phải diễn đạt thành lời. Ý hay mà không biết cách diễn đạt thì lời văn trở nên sáo rỗng. Lời văn hay là lời văn chân thành, trong sáng, giản dị, có hình ảnh, có âm thanh, có nhạc điệu,...và có cách sắp xếp (bố cục) chặt chẽ. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ vào bài làm. Trên cơ sở rèn luyện kĩ năng đặt câu, giáo viên định hướng cho học sinh viết đoạn văn miêu tả có sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ thông qua một số bài tập cụ thể. Bài 1: Hãy viết một đoạn văn (từ 5-7 câu) tả cảnh hoặc tả cây cối có sử dụng các biện pháp tu từ đã học, có câu mở đầu là: a) Mỗi khi mùa xuân về... b) Mùa hè sang... c) Thu đến... d) Khi trời chuyển mình sang đông... Sau khi học sinh viết xong đoạn văn, giáo viên tiến hành chấm chữa bài và cung cấp một số đoạn văn hay để học sinh tham khảo. Đoạn văn tham khảo a) Mỗi khi mùa xuân về, những búp bàng cựa mình chui ra khỏi những nhánh khô gầy, khẳng khiu sau cả mùa đông dài ấp ủ dòng nhựa nóng. Chỉ qua một đêm thôi, những chồi xanh li ti đã điểm tím hết cành to, cành nhỏ. Và rồi từng ngày những chồi xanh ấy lớn nhanh như thổi, mỗi lúc mỗi khác. Cái màu xanh mượt mà, cái sức sống quyết liệt ấy đã gợi mở rất nhiều điều mới lạ trong tôi. (Sử dụng biện pháp nhân hoá) b) Mùa hè sang, cành trên cành dưới chi chít lá. Tán bàng xoè ra như một chiếc ô khổng lồ, nhiếu tầng nhiều bậc chiếm lĩnh không gian. Dưới cái ô khổng lồ màu ngọc bích ấy, không biết bao nhiêu người khách qua đường đã dừng lại nghỉ chân. Hiền lành và trầm tư, ngày qua ngày, cây bàng vẫn bền bỉ dang rộng vòng tay giúp ích cho đời. ( Sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá) c) Thu đến, những chiếc lá bàng cứ đỏ dần lên theo từng nhịp bước heo may. Cây bàng lại trang điểm cho mình một bộ cánh mới. Bộ cánh đó cứ đậm dần lên sau từng đêm thao thức. Đến cuối thu thì nó chuyển hẳn sang màu đỏ tía. Cái màu đỏ ấy không thể thấy ở bất cứ loài cây nào. ( Sử dụng biện pháp nhân hoá, ẩn dụ. ) d) Khi trời chuyển mình sang đông, cây bàng bắt đầu trút lá. Những chiếc lá bàng lay động như những ngọn lửa đỏ bập bùng cháy. Rồi chỉ một cơn gió nhẹ, những ngọn lửa đỏ ấy chao liệng rồi đua nhau rớt xuống. Chỉ qua một đêm thôi, mặt đất đã được trang điểm một tấm thảm đỏ được dệt bằng những chiếc lá bàng. Kì diệu thay những chiếc lá! Đã rụng rồi mà vẫn toát lên vẻ đẹp đến mê say. ( Sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ) Bài 2: Có một nhà văn đã viết: “ Trăng là cái liềm vàng giữa đống sao. Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn”. Dựa vào hiểu biết về bầu trời, ánh trăng em hãy viết một đoạn văn tả cảnh đẹp của bầu trời đêm trung thu có sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa. Đoạn văn tham khảo. Vầng trăng vàng thẳm đang từ từ nhô lên sau lũy tre làng xanh thẫm. Trăng tuôn chảy những ánh vàng trên khắp làng quê, trăng dào dạt cùng sóng lúa, trăng tắm đẫm rặng tre rì rào trong gió. Trăng lẫn trốn trong tán lá xanh rì rào của cây đa đầu thôn. Trăng lai láng trong vườn chuối dõi theo mấy cô cậu tí hon đang chơi trận giả. Trăng đi đến đâu nơi ấy bừng lên tiếng cười rộn rã. Trăng tinh nghịch đậu vào ánh mắt của các anh chị thanh niên. Trăng vờn lên má các em thiếu nhi. Trăng ôm ấp mái tóc bạc phơ của các cụ già. Trăng đẹp xiết bao! Trăng ùa vào lòng người khơi dậy tình yêu cuộc sống. * Rèn kĩ năng viết bài văn: Trên cơ sở rèn kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ đã học, tôi hướng dẫn cho các em vận dụng vào viết hoàn chỉnh một bài làm văn. Kĩ năng này được vận dung thực hiện trong nhiều tiết viết bài TLV ở nhà và ở lớp. Ngoài ra có thể lồng ghép vào các tiết thực hành luyện đề cụ thể... 2.3.3. Tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với văn thơ. Để giúp các em cảm thụ tốt văn học người thầy giáo phải làm cho học sinh có hứng thú và niềm say mê học văn. Không yêu thích văn học thì tâm hồn người học sinh không thể rung động được trước vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp tâm hồn nhà văn. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn chính là giúp các em tự rèn luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác và say mê. Khi gặp bất kì tác phẩm văn học nào tự bản thân các em sẽ phải trăn trở, suy tư và luôn hướng tâm hồn, tình cảm của mình đến với tác phẩm. Để làm tốt điều này đòi hỏi mỗi giáo viên qua từng bài giảng cần có giọng đọc diễn cảm, lời bình hay và luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học để lôi cuốn học sinh vào những áng văn thơ, làm cho các em thích được tiếp xúc và gần gũi với văn thơ. 2.3.4. Bồi dưỡng vốn ngôn ngữ Muốn cảm thụ văn học tốt học sinh phải có vốn ngôn ngữ. Vốn ngôn ngữ bao gồm sự hiểu biết giá trị của âm, từ ngữ, hình ảnh, câu, thanh điệuBởi ngôn ngữ chính là phương tiện, dụng cụ để hiểu, cảm thụ viết văn. Học sinh càng giàu vốn ngôn ngữ càng có khả năng cảm thụ sâu sắc hơn vẻ đẹp của câu, chữ, càng thấy được cái khéo, cái hay, cái tài của nhà văn. Muốn phong phú vốn từ giáo viên cần hướng dẫn cho các em phải biết tích lũy ngôn ngữ từ việc đọc, nghe, nói và có thói quen ghi nhớ để bổ sung vốn từ. Từ đó khi cần sẽ biết sử dụng, lựa chọn để hiểu, để cảm nhận được ngôn từ mà nhà văn đã dùng. Ví dụ trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận có câu: “ Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Chữ “ em” trong câu thơ quả là thần kì. Ở đây ta có thể hiểu “em” là từ dùng với phép nhân hóa để chỉ các loài cá: Nhụ, chim, đé. Cách gọi thân thương, gần gũi này đã nâng loài cá lên thành con người có tâm hồn và tình cảm. Phép nhân hóa làm cho câu thơ có hồn và có sức hấp dẫn kì lạ. Giữa con người và biển cả trở nên thân thiết và gắn bó biết bao. Do vậy nếu không có vốn ngôn ngữ chắc gì chúng ta thấy được cái hay, cái đặc sắc của thơ văn. 2.3.5. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học. Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có ảnh hưởng bởi vốn sống của mỗi người. Cảm thụ văn học diễn ra ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố như: Vốn sống, vốn hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, yếu tố di truyềnTình cảm và thái độ khi tiếp xúc với văn học được thể hiện qua hoạt động và quan sát cuộc sống hằng ngày. Trong các giờ học bộ môn Ngữ văn đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn chú ý đến việc liên hệ thực tế cuộc sống với văn học giúp các em hình thành được kĩ năng vận dụng thực tế cuộc sống với văn học, đồng thời qua đó giúp các em tích lũy được vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống với văn học. Nhớ lại quãng đời học văn tuổi nhỏ, giáo sư Lê Trí Viễn đã rút ra nhận xét quí báu: “Trong thơ văn hay chữ nghĩa ngoài cái gọi là nội dung giao tiếp thông thường của nó, còn có vốn sống của cuộc đời nghìn năm bồi đắp lại”. Do vậy bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần tích lũy cả vốn hiểu biết về văn học thông qua việc đọc sách báo thường xuyên. Từ đó giúp các em mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học. Có thể thấy qua quá trình dạy học của bản thân, tôi đã sử dụng các giải pháp trên vào đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực sáng tạo, chủ động của học sinh cũng như góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn 6 . Sau khi đề ra một số biện pháp thực hiện như vậy và để kiểm nghiệm hiệu quả của các giải pháp trên, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Các em làm khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là bảng đối chứng về kết quả học tập của các em. a. Học sinh yêu thích môn học Yêu thích: 46% Bình thường: 48,7% Không thích: 5,3 % b. Kết quả khảo sát chất lượng: TT Lớp Sĩ số Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 1 6a 35 05 14,3 13 37,1 12 34,3 05 14,3 2 6B 36 04 11,1 12 33,3 14 38,9 06 16,7 Tổng 71 09 12,7 25 35,2 26 36,6 11 15,5 Như vậy để giúp học sinh yêu thích môn học, rèn luyện tốt kĩ năng cảm thụ văn học là một việc làm đòi hỏi tất cả giáo viên dạy lớp đầu cấp phải có lòng kiên trì không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần mà có khi vài tháng, thậm chí cả học kì. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì khó thành công. 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa đề tài Trong suốt quá trình vận dụng, khai thác các biện pháp nghệ thuật tu từ vào việc cảm thụ văn học tôi nhận thấy các em chăm chú theo dõi, hào hứng phát biểu bài, khi viết bài đạt được kết quả cao. Hầu hết các em đã biết vận dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ đã được học vào bài viết, khả năng cảm thụ văn học được nâng lên, câu văn thể hiện được cảm xúc, trình bày lô gíc khoa học. Các bài tập ứng dụng các em đều làm tốt, có sự sáng tạo theo cách cảm nhận của riêng mình. Ban đầu các em rất ngại tiếp xúc với văn thơ nhưng giờ đây các em rất có hứng thú tiếp xúc với văn thơ để được cảm nhận cái hay, cái đẹp trong văn thơ, từ đó các em tích luỹ được vốn hiểu biết về văn thơ giúp các em thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước. Quả thật học văn, làm văn là một năng lực tổng hợp, là quá trình bền bỉ dày công học tập, trau dồi lâu ngày, đó là chưa nói đến năng khiếu. Song dù có năng khiếu ít hay nhiều thì sự nhẫn nại, kiên trì rèn luyện trong học tập vẫn là con đường dẫn đến sự thành công lớn nhất. Với phương pháp phân tích giá trị biểu cảm của các biện pháp nghệ thuật tu từ trong văn thơ cũng chỉ là một cách trong rất nhiều cách để khám phá ra vẻ đẹp muôn màu muôn sắc và giá trị cao đẹp đầy tính nhân văn mà các tác giả muốn gửi gắm qua từng trang viết, giúp các em có hứng thú hơn với môn văn và trong cả quá trình học văn. Tôi hy vọng với một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 nói riêng và các lớp tiếp nối ở THCS nói chung. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất. Nâng cao trình độ, năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là một việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên ngoài lòng kiên trì, chịu khó thì phải có trình độ, năng lực tốt. Phải thường xuyên kích thích hứng thú cho học sinh tiếp xúc với thơ văn. Đồng thời kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thường xuyên hơn để có biện pháp khắc phục và uốn nắn kịp thời. Cụ thể: Khi dạy các phép tu từ giáo viên cần tăng cường luyện tập, thực hành cho học sinh nhiều hơn, rèn cho các em kĩ năng nhận biết, phân tích giá trị biểu cảm của các biện pháp NTTT góp phần làm nổi bật giá trị nội dung và tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Bên cạnh đó, trong các giờ đọc hiểu văn bản giáo viên cần chú trọng phát hiện và khai thác tốt các ngữ liệu có sử dụng các biện pháp NTTT, từ đó hướng học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp về giá trị nội dung, nghệ thuật mà tác phẩm mang lại. Từ những hiểu biết về cách nhận biết, cách tìm giá trị nghệ thuật, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng thường xuyên vào việc tạo lập văn bản trong các tiết viết bài TLV, đặc biệt là văn miêu tả.. hoặc có thể vận dụng trong giao tiếp hàng ngày để lời văn, lời nói giàu hình ảnh và tính biểu cảm cao. Ngoài ra về phía nhà trường cần trang bị thêm các tài liệu và đồ dùng phục vụ tốt nhất cho việc dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. Đối với các đồng chí phụ trách chuyên môn cần tạo điều kiện mở thêm những lớp chuyên đề hoặc phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy, những sáng kiến kinh nghiệm hay để anh chị em giáo viên có cơ hội học tập, nâng cao tay nghề. Tóm lại với nhận thức của mình trong thời gian ngắn, tôi đã nổ lực, tìm tòi, suy nghĩ và đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có thể những quan điểm dạy học đã nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu và không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá bổ sung để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, có giá trị hơn trong thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở THCS. Xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ sách Ngữ văn 6 NXB Giáo dục [2] Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng : Một số câu hỏi và bài tập nâng cao Ngữ văn 6 NXB Giáo dục. [3] Tạ Đức Hiền – Nguyễn Việt Nga –Phạm Minh Tú : Yêu văn và học văn –NXB Hà Nội [4] PGS.TS.Lê Huy Bắc (chủ biên) –Lê Quang Đức – Nguyễn Thị Minh Tuyết :Hỏi đáp kiến thức Ngữ văn 6 NXB Giáo dục. [5] Đoàn Thị Thu Hà – Phùng Thị Thanh Lâm : Ngân hàng bài tập tiếng việt lớp 6 NXB Giáo dục [6] Vũ Nho (chủ biên) –Nguyễn Thúy Hồng –Trần Thị Thành : Bài tập rèn kĩ năng tích hợp Ngư văn 6 NXB Giáo dục.
File đính kèm:
skkn_phat_huy_nang_luc_cam_thu_van_hoc_cho_hoc_sinh_lop_6_th.doc