SKKN Phương pháp giảng dạy môn Ngữ Văn Lớp 9 phục vụ cho việc thi tuyển sinh vào các Trường THPT Phần Nghị Luận văn học

Từ xưa đến nay, Văn học luôn có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển nhân cách của con người, bởi: “Văn học là nhân học”. Trong trường phổ thông, môn Ngữ văn cũng đã được các cấp, các ngành hết qức quan tâm. Nó chiếm thời lượng đáng kể so với các môn học khác. Đó là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội , có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm, nhân cách học sinh. Nó không những tạo tiền đề cho học sinh có kĩ năng nghe- nói- đọc- viết mà còn rèn cho các em có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu giúp các em có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Văn học đồng thời cũng là môn công cụ có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khác. Do vậy học tốt môn Văn sẽ giúp các em khám phá, tiếp nhận các môn khoa học khác một cách tốt hơn.

Môn Ngữ văn trong trường THCS gồm ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong thực tế học sinh luôn coi môn Ngữ văn là môn khó nhất, dài nhất. Theo kết quả điều tra bằng phiếu vào đầu năm học trước nữa , nhiều em chưa thực sự yêu thích môn học ý nghĩa và bổ ích này và càng không thích phần nghị luận văn học. Để học tốt môn này thì đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đã được đề cập bàn luận và thực hiện trong nhiều năm qua, đặc biệt trong mấy năm gần đây, với việc thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa mới thì đổi mới phương pháp dạy học càng được thúc đẩy và phát huy một cách có hiệu quả. Đứng trước tình trạng đó, tôi và nhiều đồng nghiệp khác đã không khỏi băn khoăn. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tìm biện pháp để giúp các em có kĩ năng làm văn nhất là văn nghị luận. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9 phục vụ cho việc thi tuyển sinh vào các trường THPT phần Nghị luận văn học”.

Thực tế ở lớp dưới các em đã được học về các kiểu văn bản cụ thể. Chẳng hạn lớp 7 đã học về văn biểu cảm, về văn nghi luận (trong đó có phép lập luận chứng minh và phép lập luận giải thích). Lớp 8 học tiếp khá kĩ về văn bản nghị luận, về cách nói và viết bài văn nghị luận có sử dụng các yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Vì thế các tiết dạy- học phần nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ở lớp 9 phải kế thừa, nâng cao kiến thức đã cung cấp, kĩ năng đã rèn luyện ở các lớp trước. Sự kế thừa, nâng cao này cần tăng cường hoạt động thực hành của học sinh. Thật ra, trong một bài nghị luận văn học, người viết thường vận dụng nhiều thao tác, kĩ năng (giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng.....) và nhiều khi khó có thể tách bạch một cách rạch ròi các thao tác kĩ năng. Trong thao tác nghị luận này đã có hoặc đang sử dụng thao tác nghị luận kia. Nhưng thực tế tại trường THCS của chúng tôi thì học sinh còn yếu ở các kĩ năng, thao tác, vì vậy bài văn nghị luận chưa mang tính thuyết phục cao. Do vậy mục đích của bài viết nhằm đưa ra một phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh, để nâng kĩ năng làm văn nghị luận đồng thời dần nâng cao điểm thi vào THPT.

doc 19 trang Trang Lê 28/03/2025 150
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp giảng dạy môn Ngữ Văn Lớp 9 phục vụ cho việc thi tuyển sinh vào các Trường THPT Phần Nghị Luận văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Phương pháp giảng dạy môn Ngữ Văn Lớp 9 phục vụ cho việc thi tuyển sinh vào các Trường THPT Phần Nghị Luận văn học

SKKN Phương pháp giảng dạy môn Ngữ Văn Lớp 9 phục vụ cho việc thi tuyển sinh vào các Trường THPT Phần Nghị Luận văn học
n bội, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Nhưng thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng ông rồi khiến ông có tâm trạng bối rối, phân vân, nửa tin nửa ngờ. Chỉ bằng một đoạn văn ngắn, tác giả đã cụ thể hoá sững sờ, ngạc nhiên cao độ, nghẹn ngào đau đớn, tức giận khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Qua đây, một lần nữa, nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của ông hai trong biến cố này.Cả nhà ông Hai những ngày sau đó, sống trong bầu không khí ảm đảm, nặng nề, đầy lo lắng. Họ nghĩ đến sự ghẻ lạnh, tẩy chay của mọi người và đặc biệt lo lắng khi không biết sẽ phải làm thế nào. Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là ' chuyện ấy'. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người , trốn biệt ở nhà, không dám bước chân ra ngoài vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông đi, chỉ vì họ là người làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng, khó khăn nhất: “ thật là tuyệt đường sinh sống”, đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Trong tình cảnh ấy ông Hai đã nghĩ “ hay là quay về làng” nhưng rồi ông đã dứt khoát “ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, chịu đầu hàng Tây là cam chịu kiếp 
sống nô lệ, cô độc” nên ông đã quyết định “ làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Làng ông không còn là làng có đường thôn ngõ xóm đẹp đẽ nữa mà là cái gì đó lớn lao hơn là danh dự , là cái lẽ làm người. Đến đây, tình yêu làng của ông Hai đã hoà quyện vào tình yêu nước.
Viết đoạn văn triển khai cho luận điểm : “Suy nghĩ về những nét nghệ thuật tiêu biểu khi miêu tả về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai”.
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết, yêu cầu học sinh đọc trước lớp sau đó giáo viên sửa chữa cho các em.
Ví dụ: 
Truyện đã xây dựng được những kịch tính, nội tâm nhân vật bộc lộ qua những hành động, suy nghĩ, thái độ, việc làm trở thành hai cốt truyện tâm lí độc đáo. Kịch tính của truyện được phát triển theo tầng bậc từ thấp đến cao. Tác giả đã xây dựng được những tình huống hấp dẫn, xúc động, đẩy chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thoả đáng và có hậu. Tuy vậy nhưng vẫn gây được hứng thú, tạo sự bất ngờ cho người đọc, người nghe. Ngôn ngữ văn chương của Kim Lân đậm đà chất Kinh Bắc, có những chỗ, những lúc chất liệu địa phương đã được sử dụng trong giao tiếp, ứng xử của nhân vật rất khéo léo. Qua đó ta thấy được bút pháp nghệ thuật sáng tạo của Kim Lân trong việc khai thác đời sống nội tâm nhân vật.
Viết phần kết bài
c. Kết bài:
 Truyện ngắn “Làng” đã thể hiện một cách chân thực, sinh động tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân trong những năm kháng chiến chống Pháp. Nó góp thêm cho văn học yêu nước một tiếng nói riêng rất thú vị, rất đặc trưng.
 Cùng một tác phẩm giáo viên hướng dẫn học sinh lập ra những dạng đề khác nhau. Hướng dẫn học sinh khái quát ở từng dạng đề cần tập trung vào vấn đề gì, rồi yêu cầu học sinh về nhà viết, sau đó giáo viên sẽ kiểm tra ở các giờ 
học tiếp theo. Khi kiểm tra giáo viên cần sửa chữa cụ thể cho học sinh.
Ví dụ : 
Dạng đề thứ hai : Phân tích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân
Dạng đề thứ ba : Phân tích diễn diến cốt truyện“ Làng”của Kim Lân.
Dạng đề thứ tư : Cảm nhận của em sau khi học xong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Đề số 2: Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”của Thanh Hải.
1. Tìm hiểu đề, tìm ý: Cho học sinh đọc kỹ đề văn, gạch chân các từ ngữ quan trọng trong đề: 
Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”của Thanh Hải
Phần tìm ý chỉ cần thực hiện lướt qua vì học sinh đã được tìm hiểu kỹ trong giờ giảng văn, giáo viên chỉ cần chú ý nhấn mạnh từ “ suy nghĩ” để định hướng cách làm bài cho học sinh.
2. Lập dàn ý: 
Cho học sinh tự lập dàn ý ra vở nháp và trực tiếp trình bày trên bảng sau đó giáo viên cùng học sinh nhận xét từng bài làm, cùng nhau đưa ra dàn ý chuẩn mực.
a. Mở bài: 
- Khái quát chung về tác giả và bài thơ.
- Những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời
b. Thân bài:
*Mùa xuân của thiên nhiên
- Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, gợi cảm, tràn đầy sức sống, tươi vui 
rộn rã qua các hình ảnh thơ đẹp: Bông hoa tím biếc, dòng sông xanh, âm thanh 
của tiếng chim chiền chiện
- Nghệ thuật: 
+ Từ ngữ gợi cảm, gợi tả.
+ Đảo cấu trúc câu. 
+ Sử dụng màu sắc, âm thanh
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”.
-> Cảm xúc : say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời vào xuân
 * Mùa xuân của đất nước
- Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu.
- Hình ảnh biểu tượng: người cầm súng, người ra đồng 
 -> hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng đất nước.
- Hình ảnh ẩn dụ: lộc non ( chồi non, lá non, sức sống của mùa xuân, thành quả 
hạnh phúc) trong câu thơ: “ Lộc giắt đầy trên lưng. Lộc trải dài nương mạ” 
- Nghệ thuật.
+ Nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao.
+ Hình ảnh so sánh, nhân hoá đẹp: “Đất nước như vì sao - Cứ đi lên phía trước”
 -> ngợi ca vẻ đẹp đất nước tráng lệ, trường tồn, thể hiện niềm tin sáng ngời của
 nhà thơ về đất nước.
 * Tâm niệm của nhà thơ. 
- Là khát vọng được hoà nhập, cống hiến vào cuộc sống của đất nước
- Ước nguyện đó được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp, mỗi người phải 
biết sống, cống hiến cho cuộc đời. Thế nhưng dâng hiến, hoà nhập mà vẫn giữ 
được nét riêng của mỗi người.
c, Kết bài:
- Bài thơ mang tựa đề thật khiêm tốn nhưng ý nghĩa lại sâu sắc, lớn lao.
- Cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng. 
3. Viết bài:
Cho học sinh tập viết từng phần, từng đoạn theo dàn ý, sau đó trình bày trước lớp để giáo viên nhận xét góp ý, bổ sung.
Sau khi cho học sinh viết, giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe hoặc chép 
một bài văn mẫu chuẩn mực để các em tập làm theo.
a, Mở bài: Có nhiều cách viết:
Ta có thể lấy ví dụ:
* Đi từ tác giả, tác phẩm tới vấn đề phân tích: 
Thanh Hải là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ của ông nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đậm chất trữ tình. Năm 1980 khi ông đang nằm trên giường bệnh đã sáng tác bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ để lại cho đời một tình cảm nhân hậu thiết tha. Đặc biệt từ mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, mùa xuân cách mạng nhà thơ đã cho ta thấy được những ước nguyện đẹp như mùa xuân. Từ đó ta thấy cái nhìn lạc quan, tin tưởng của nhà thơ đối với đất nước trong một giai đoạn lịch sử mới: xây dựng tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.
* Đi từ đề tài sang tác phẩm:
Mùa xuân là đề tài vô tận của thi ca. Em đã từng yêu thích đến say mê bài thơ “ Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử; bâng khuâng trước một buổi “ Chiều xuân” của nữ thi sĩ Anh Thơ; ngỡ ngàng trước “ Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính; nhưng nói đến thơ mùa xuân thì không ai có thể quên được Thanh Hải với bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ là những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời.
b. Thân bài:
Giáo viên giới thiệu phần phân tích khổ thơ đầu: 
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:
 “Mọc giữa dòng sông xanh 
 Một bông hoa tím biếc, 
 Ơi! con chim chiền chiện 
 Hót chi mà vang trời”
Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế . Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi” ,“chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình : “Từng giọt long lanh rơi - Tôi đưa tay tôi hứng”. Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân . 
c, Kết bài: 
Bài thơ đã khép lại nhưng ý tình vẫn còn lắng đọng và ngân vang trong lòng người phải chăng một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời kìa không chỉ là của Thanh Hải mà còn là ước nguyện của mỗi chúng ta những ai đã đọc bài thơ, những ai muốn sống đẹp và hữu ích cho đời. Có biết được hoàn cảnh ra 
đời của bài thơ ta mới thấy hết giá trị và ý nghĩa cao đẹp của nó. Bài thơ được Thanh Hải viết vào mùa đông tiết trời lạnh giá lúc nằm trên giường bệnh cận kề cái chết Ta chợt hiểu mùa xuân đây không phải từ bên ngoài đến mà đã có trong lòng nguời. Như Xuân Diệu đã có lần cảm nhận : “Xuân của đất trời hôm nay sao mới đến - Trong tôi xuân đến tự lâu rồi” ( Xuân không mùa ). Chính mùa xuân vĩnh cửu trong lòng ấy đã giúp nhà thơ quên đi sự đau đớn của bệnh tật, sự rình rập của cái chết đem lại cho nhà thơ niềm say sưa với cuộc sống, lòng tin yêu, lạc quan với cuộc đời.
4. Sửa lỗi:
Sau khi cho học sinh làm bài và trình bày trước lớp ( hoặc qua bài kiểm tra), giáo viên chú ý sửa chữa các lỗi thường gặp cho học sinh: 
- Lỗi dùng từ, đặt câu
- Lỗi diễn đạt: Sử dụng văn nói khi viết, thiếu câu dẫn, viết tắt...
5. Tăng cường ra bài tập mới : với các đề tương tự để rèn kỹ năng làm bài cho học sinh, giáo viên phải thường xuyên chấm trả để học sinh thấy được những ưu khuyết điểm của mình, sửa chữa khắc phục kịp thời.
Chương III
 KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI CỦA SÁNG KIẾN
 Sau khi áp dụng vào thực tế giảng dạy, so sánh và đối chứng qua các năm, tôi thấy việc vận dụng phương pháp giảng dạy trên đã thu được kết quả đáng khích lệ, chất lượng đã từng bước được nâng cao. Cụ thể là: 
 Điểm
Năm học
Điểm TB
Điểm khá giỏi
Điểm yếu kém
2015– 2016
45%
25%
30%
2016 - 2017
50%
33%
17%

Tuy tỷ lệ điểm khá, giỏi vẫn rất khiêm tốn, chưa đạt yêu cầu, song như vậy với thực lực của học sinh trường THCS của chúng tôi là đã có sự chuyển biến, mỗi năm chất lượng thi vào THPT cũng đã dần được nâng cao ở môn Ngữ văn, nhưng vẫn cần đòi hỏi có sự tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, cải tiến phương pháp giảng dạy hơn nữa để từng bước nâng cao chất lượng mũi nhọn trong việc ôn tập giúp học sinh ôn tập thi tuyển sinh vàoTHPT.
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của SK.
- Vai trò chủ thể của người thầy, đặc biệt nó mở cho người thầy một hướng đi đúng như cách cảm, cách hiểu, cách phân tích và phương pháp giảng dạy nghị luận văn học, cách khơi mạch và cùng học trò bình đẳng “thám hiểm” tác phẩm. Từ đó giúp các em hiểu đúng và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm cũng như tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm qua mỗi tác phẩm văn học.
- Củng cố kiến thức cơ bản về thể nghị luận văn học cho học sinh.
- Học sinh có kỹ năng viết đoạn văn, bài văn cảm thụ cái hay, cái đẹp về cả giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Phương pháp giảng dạy và ôn tập mảng nghị luận văn học giúp học sinh có đủ tự tin làm bài trong các kì thi tuyển vào các trường THPT.
2. Hiệu quả thiết thực của SK nếu được triển khai, áp dụng trong phạm vi cơ sở
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy nếu phương pháp trên được áp dụng triệt để thì chắc chắn điểm thi của học sinh vào THPT sẽ được cải thiện rất nhiều bởi: Giảng dạy và ôn tập bộ môn ngữ văn giúp học sinh thi vào các trường THPT đặc biệt là phần nghị luận văn học là một vấn đề không phải dễ dàng bởi đây là mảng kiến thức cực kỳ quan trọng giúp học sinh vừa củng cố các kiến thức đã học, các kỹ năng làm bài mà còn gợi mở, hướng cho học sinh tiếp tục học cao hơn trong chương trình THPT. Để thực hiện tốt yêu cầu này đòi hỏi học sinh phải có khả năng tìm hiểu, cảm nhận, và thẩm bình tác phẩm văn học. Hơn nữa, học sinh phải có vốn ngôn từ phong phú, cách sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, diễn đạt được tình cảm và những rung động chân thành của mình về tác phẩm văn học. Muốn như vậy trước hết giáo viên phải bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê văn học, có tư tưởng lập trường đúng đắn, có cái nhìn khoa học sau đó mới đễn việc rèn luyện kỹ năng làm bài cho các em. Do đó nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn ngữ văn lớp 9 nói chung và phần nghị luận văn học nói riêng là một yêu cầu quan trọng và thường nhật đòi hỏi sự nỗ lực 
của cả thầy và trò.
3. Kiến nghị với các cấp quản lí	
Qua nghiên cứu và thực tế giảng dạy, tôi đề xuất một số ý kiến sau đây:
- Cần trao đổi nhiều hơn, thẳng thắn hơn, thiết thực hơn về phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng để 
giáo viên được học hỏi kinh nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Các cấp quản lý giáo dục cần quan tâm nhiều hơn nữa, có những định hướng về nội dung phương pháp giảng dạy từng phân môn để giáo viên thực hiện tốt việc ôn tập, giúp học sinh thi tuyển vào các trường THPT. 
- Quan trọng hơn cả là mỗi giáo viên phải luôn có ý thức tự học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hiệu quả giảng dạy ngày càng cao.
- Nhà trường cần tạo điệu kiện thường xuyên mở các cuộc ngoại khoá văn học cho học sinh lớp 8 và lớp 9, đọc diễn cảm tác phẩm văn thơ, ngâm thơ, đọc có phân vai, đóng các vai hoạt cảnh để gây thêm niềm say mê cho học sinh trong học tập và nhiều lĩnh vực khác.
Để học sinh thích học và học tốt môn văn đó là điều mà tất cả giáo viên chúng ta phải băn khoăn, trăn trở để tìm ra được hướng đi, giải pháp cho mình. Tôi hy vọng bản sáng kiến kinh nghiệm của mình sẽ gúp một phần nhỏ vào quá trình tìm kiếm đó.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân rút ra từ quá trình giảng dạy của tôi, chắc sẽ còn những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành từ phía các đồng nghiệp để tôi có điều kiện hoàn thiện bản thân trong quá trình giảng dạy, góp phần thực hiện tốt sự nghiệp trồng người của mỗi chúng ta.
PHẦN IV. PHỤ LỤC
Để triển khai đề tài này tôi đã tham khảo những tài liệu sau:
1. Sách giáo khoa ngữ văn 9 tập II- NXB GIÁO DỤC
2. Sách giáo viên ngữ văn 9 tập II- NXB GIÁO DỤC
3. Một số kiến thức- kĩ năng và bài tập nâng cao ngữ văn 9 - NXB GD
4. Hướng dẫn tập làm văn 9 – NXB GIÁO DỤC
5. Những bài làm hay THCS lớp 9 – NXB ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
6. Kiến thức cơ bản ngữ văn 9 – NXB ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
7. Bình giảng văn 9 – NXB GIÁO DỤC
8. Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 9 – NXB GIÁO DỤC

File đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_giang_day_mon_ngu_van_lop_9_phuc_vu_cho_vie.doc