SKKN Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11 THPT

Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua dạy học tiếng việt là một trong những yêu cầu cần thiết trong đổi mới dạy học văn hiện nay. Bởi giao tiếp là một nhu cầu cơ bản của con người, có vai trò quan trọng trong các hoạt động của con người. Sự phát triển của xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải có những kĩ năng giao tiếp cần thiết. Những kĩ năng này có thể được hình thành một cách tự giác hoặc tự phát trong cuộc sống trong hoạt động của mỗi người, tuy nhiên con người chỉ được trang bị một cách có hiệu quả những kĩ năng trên nếu được sống trong môi trường giáo dục phù hợp và mang tính khoa học.

Đối với lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông (THPT) giao tiếp là một hoạt động chủ đạo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em trong độ tuổi này. Việc hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh đang là vấn đề được quan tâm trong nhà trường hiện nay, bởi lẽ, nó góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông là hoàn thành phát triển năng lực và nhân cách toàn diện cho học sinh. Thực tế cho thấy, học sinh THPT nói chung và học sinh THPT ở miền núi nói riêng, do hạn chế về điều kiện sống, môi trường giao tiếp, môi trường giáo dục, do ảnh hưởng của một số nét tâm lý như tự ti, thiếu mạnh dạn, không chú trọng học tập môn Ngữ văn nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng nên có nhiều hạn chế nhất định như: kĩ năng diễn đạt, kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp, kĩ năng làm chủ quá trình giao tiếp, kĩ năng đọc, nghe, nói, viết

Trong khi đó việc hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh của các giáo viên dạy học dạy học Ngữ văn nói chung và dạy phân môn tiếng Việt nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, kết quả giáo dục còn nhiều hạn chế, việc tổ chức các hoạt động giáo dục chưa thực sự có hiệu quả…. Vậy làm thế nào để học sinh phát huy được năng lực giao tiếp, nâng cao hiệu quả giờ dạy học phân môn tiếng Việt là một vấn đề cấp thiết. Trong những năm gần đây, đã có không ít những hội thảo chuyên môn, những tài liệu của các nhà giáo dục, các SKKN của GV biên soạn để hỗ trợ cho quá trình dạy học môn Ngữ văn cho học sinh THPT nói chung và phân môn tiếng Việt nói riêng. Tuy nhiên, nhiều tài liệu trong số đó đã viết cách đây khá lâu nên không còn phù hợp với xu thế thời đại, theo hướng mới của Bộ. Một số ít sách báo, SKKN hướng dẫn HS rèn kĩ năng giao tiếp nhưng chủ yếu nặng về kiến thức lí thuyết, nhiều tài liệu được viết với nội dung và cách thức giống nhau, chưa bám sát vào những khó khăn trên thực tế mà HS mắc phải để từ đó xây dựng những biện pháp phù hợp, hiệu quả cho các em.

pdf 64 trang Trang Lê 24/05/2025 170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11 THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11 THPT

SKKN Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn Lớp 11 THPT
ối tượng ứng dụng 
Đề tài áp dụng chủ yếu cho giáo viên và học sinh trong việc dạy – học phần 
tiếng Việt nói chung, dạy và học phần tiếng Việt (Ngữ văn THPT) nói riêng 
1.3.3. Hiệu quả 
Đề tài đã được thể nghiệm tại trường THPT Đặng Thúc Hứa, trong năm học 
2021-2022, đem lại những hiệu quả thiết thực cho việc đổi mới phương pháp dạy 
học phần tiếng Việt (Ngữ văn THPT) nhằm nâng cao khả năng giao tiếp cho HS. 
Các em đã nhận thức được vai trò của kiến thức Tiếng việt với việc hình 
thành các kĩ năng giao tiếp, từ đó, nâng cao ý thức học tập và thực hành nhiều hơn 
để rèn luyện và phát huy khả năng nói, viết của mình. Đồng thời biết cách vận 
dụng kiến thức tổng hợp từ phần tiếng Việt vào các tình huống giao tiếp cụ thể, 
tránh “lãng phí kiến thức” đã học 
Với riêng bản thân tôi, quá trình thực hiện đề tài, tôi đã thu nhận cho mình 
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Tôi nhận thấy, việc dạy – học các môn học nói 
chung, môn Ngữ văn và phần tiếng Việt nói riêng, cơ bản đều phải lấy việc hình 
thành kĩ năng, năng lực giao tiếp, rèn luyện kĩ năng nói - viết làm mục tiêu. Riêng 
đối với hợp phần tiếng Việt, hình thành được thói quen sử dụng ngôn ngữ, nâng 
cao khả năng giao tiếp cho các em để phục vụ cho cuộc sống thực tế quan trọng và 
cần thiết hơn là cung cấp kiến thức cho học sinh một cách bị động, chủ yếu là toàn 
 46 
lí thuyết. Qua đó, tôi càng nhận thấy vai trò quan trọng của dạy học Tiếng việt 
trong việc hình thành kĩ năng giao tiếp của HS. 
2. Kiến nghị 
2.1. Với giáo viên 
Nâng cao chất lượng cho giờ dạy học tiếng Việt, từ đó rèn luyện cho HS kĩ 
năng nói - viết là trách nhiệm chính của GV Ngữ văn. HS chỉ được học tiếng Việt 
45 hay 90 phút trong tuần, phần lớn các em để ý, học hỏi cách giao tiếp, trình bày 
của chính GV dạy bộ môn. Vì vậy, thầy cô giáo cần quan tâm đến nói, viết đúng 
chuẩn để tạo môi trường tiếng Việt lành mạnh cho các em học tập, noi gương 
Để dạy học tiếng Việt nhằm nâng cao khả năng giao tiếp, rèn luyện kĩ năng 
nói - viết thành công GV cần có sự chuẩn bị chu đáo. GV cần chuẩn bị kế hoạch 
dạy, thiết kế giáo án với những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp 
với cả nội dung bài học và đặc điểm đối tượng HS. Quan trọng hơn hết là GV phải 
xây dựng được các tình huống giao tiếp để học sinh thực hành giao tiếp. Tình 
huống này có thể xuất hiện trong các ví dụ, các bài tập được bổ sung thêm, có cân 
nhắc đến sự phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nơi sống, mối quan tâm của người học. 
Tình huống giao tiếp cũng có thể được phát triển thêm từ các ví dụ, bài tập trong 
SGK. Các phương pháp, hình thức dạy học được lựa chọn phải đáp ứng tiêu chí 
rèn luyện kĩ năng giao tiếp nghe nói đọc viết cho HS. 
Ngoài ra, GV phải soạn một số yêu cầu cần thiết cho HS làm việc trước ở 
nhà. Cần lưu ý rằng những yêu cầu về nhà này không nên chỉ đơn giản là những 
câu hỏi lí thuyết mà HS chỉ cần đọc SGK là trả lời được. Yêu cầu về nhà có thể chỉ 
là tìm hiểu một vấn đề nhỏ của bài học nhưng phải có tác dụng khơi gợi ở HS khả 
năng tìm tòi, tự nghiên cứu, sưu tầm hoặc đòi hỏi ở HS tinh thần làm việc tập thể. 
- Giáo viên cần đổi mới cách dạy, cách kiểm tra – đánh giá  theo hướng 
phù hợp với tâm lý, trình độ của người học, tránh gây nhàm chán trong mỗi tiết 
học, phát huy khả năng sáng tạo, kích thích niềm đam mê cho học sinh. Giáo viên 
cũng cần định hướng học sinh trong việc sử dụng sách tham khảo; quan tâm đến 
những điểm yếu kém và bù lấp những lỗ hổng kiến thức cho học sinh; chỉ ra những 
cái hay cái đẹp và những lợi ích thiết yếu trong tiếng Việt để giúp các em hứng thú 
hơn với môn học này. 
2.2. Với học sinh 
- Cần nâng cao nhận thức cá nhân về vị trí, vai trò của phân môn tiếng Việt 
trong việc hình thành năng lực giao tiếp, rèn kĩ năng nói, kĩ năng viết cho bản thân. 
Từ đó, thay đổi tư duy, cách học để không coi tiếng Việt là phân môn bắt buộc để 
học đối phó. 
- Chủ động học tập, rèn luyện năng lực giao tiếp của bản thân. Trong quá 
trình học tập phải mạnh dạn giải quyết bài tập, tập vận dụng kiến thức lí thuyết 
được học vào nói, viết hàng ngày. 
 47 
- Tích cực tham gia các cuộc thi do lớp trường phát động như thi làm báo 
tường, tập làm Mc để mài sắc năng lực ngôn ngữ cá nhân. 
2.3. Với các cấp quản lý 
- Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh 
giá theo hướng giao tiếp. Đánh giá cao của người quản lí đối với những GV có đầu 
tư cao cho chuyên môn, mạnh dạn đổi mới cách dạy học theo hướng phát triển 
năng lực, bám vào kĩ năng giao tiếp sẽ giúp GV nhiệt tình hơn với nghề. Khi dự 
giờ, người quản lí không nên cứng nhắc đánh giá GV theo khuôn mẫu: trình tự các 
bước lên lớp, dạy đủ nội dung, đúng giờ, lớp học không ồnmà không nhìn thấy 
hoặc phủ nhận những đổi mới, dụng công của người đứng lớp thì sẽ dần dần thiêu 
rụi nhiệt tâm, nỗ lực đổi mới ở người thầy và khiến họ khó lòng thay đổi được mục 
tiêu, phương pháp dạy học. 
- Cơ sở vật chất đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi ban đầu cho GV thực hiện 
các kế hoạch dạy học, HS có môi trường học tập tốt. 
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi, mong được cùng đồng nghiệp chia sẻ, 
góp ý. Thiết nghĩ, việc đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu xã hội, hoàn thiện về kĩ 
năng giao tiếp, nghe nói đọc viết không phải là công việc của riêng ai. 
Tôi xin trân trọng cảm ơn những đóng góp của quý vị! 
 48 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ văn 10, 11, 12. NXB Giáo dục, H, 
2006. 
2. Lê A, Bùi Minh Toán, Nguyễn Quang Ninh, Giáo trình Phương pháp dạy 
học tiếng Việt, NXB Giáo dục, H, 1995 Nguyễn Trí - Lê A – Lê Phương 
Nga, Giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt, tập hai NXB Giáo dục, H, 
2000. 
3. Nguyễn Viết Chữ, Về việc bồi dường kĩ năng đọc, nói, nghe, viết cho học 
sinh trong dạy học Ngữ Văn, Tạp chí Giáo dục, số 172, 2007. 
4. Nguyễn Trí, Một số vấn đề dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở 
tiểu học, Nxb Giáo dục , 2009 
5. Luật giáo dục Việt Nam (2005). 
 49 
PHỤ LỤC 
Phụ lục 1. 
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN GV NGỮ VĂN THPT 
Để phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy phần tiếng Việt ở bậc THPT trong 
SGK Ngữ văn, chúng tôi mong nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô qua phiếu 
tham khảo ý kiến, mong thầy cô trả lời dựa trên thực tế giảng dạy của cá nhân ở 
trường THPT 
Câu 1: Sau gần 10 năm thực hiện chương trình và SGK Ngữ văn THPT hiện hành, 
theo thầy/cô, phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay như thế 
nào 
A, Phù hợp về dung lượng kiến thức và đảm bảo tính hệ thống, đảm bảo yêu cầu 
tích hợp đối với môn học 
B, Chưa phù hợp về dung lượng kiến thức và chưa đảm bảo tính hệ thống, chưa 
đảm bảo yêu cầu tích hợp đối với môn học 
Câu 2: Trong bộ môn Ngữ văn, thầy cô thấy bản thân dạy phần nào là khó khăn 
nhất? Nêu rõ lí do 
A, Đọc hiểu văn bản. 
B, tiếng Việt. 
C, Làm văn. 
Câu 3: Trong quá trình giảng dạy phần tiếng Việt cho HS, GV thấy HS yếu những 
kĩ năng nào nhất? Nêu một vài biểu hiện cụ thể 
A, Kĩ năng nghe. 
B, Kỹ năng nói. 
C, Kỹ năng đọc 
D, Kỹ năng viết 
Câu 4: Nêu các biện pháp theo thầy cô có thể nâng cao hiệu quả việc học tiếng 
Việt 
. 
 50 
Phụ lục 2 
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN HỌC SINH THPT 
Để phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy phần tiếng Việt ở bậc THPT trong 
SGK Ngữ văn, chúng tôi mong nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô qua phiếu 
tham khảo ý kiến, mong các em trả lời dựa trên thực tế học tập ở trường THPT 
Câu 1: Khi học tiếng Việt, em cảm thấy nội dung kiến thức bài học như thế nào? 
A, Vừa phải, không khó cũng không dễ 
B, Nhiều, khó hiểu 
C, Chưa gắn với thực tiễn, học chỉ mang tính chất “cho biết”, cho có mà không áp 
dụng được vào đời sống 
Câu 2: Cách dạy của GV khi dạy học hợp phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn như 
thế nào 
A, Giáo viên dạy kĩ, thêm ví dụ 
B, GV bỏ qua phần tiếng Việt 
C, GV dạy qua loa, khó hiểu. 
Câu 3: Dù đã học và nắm được các yêu cầu sử dụng ngôn ngữ tiếng Viêt trong 
giao tiếp hằng này nhưng các em vẫn yếu kĩ năng nào nhất 
A, Nghe - đọc 
B, Nói - viết 
C, Nghe - viết 
C, Đọc - nói. 
Câu 4: Em hãy thử đề xuất một số ý kiến để môn tiếng Việt trở nên hấp dẫn hơn 
.. 
 51 
Phụ lục 3. 
KẾT QUẢ THU NHẬN TỪ PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN CỦA GV THPT 
TRONG VIỆC DẠY – HỌC TIẾNG VIỆT. 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 1: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng Thúc 
Hứa 
(10 GV) 
THPT 
Đặng 
Thai Mai 
(4 GV) 
THPT 
Nguyễn Sĩ 
Sách 
(5 GV) 
Tổng hợp 
kết quả 
Sau gần 10 
năm thực 
hiện chương 
trình và 
SGK Ngữ 
văn THPT 
hiện hành, 
theo thầy/cô, 
phần tiếng 
Việt trong 
chương trình 
Ngữ văn 
THPT hiện 
nay như thế 
nào 
Phù hợp về 
dung lượng 
kiến thức 
và đảm bảo 
tính hệ 
thống, đảm 
bảo yêu cầu 
tích hợp đối 
với môn 
học 
4 2 2 8 
Chưa phù 
hợp về 
dung lượng 
kiến thức 
và chưa 
đảm bảo 
tính hệ 
thống, chưa 
đảm bảo 
yêu cầu tích 
hợp đối với 
môn học 
6 2 3 11 
 52 
Kết quả khảo sát Câu 2: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng Thúc 
Hứa 
 (10 GV) 
THPT 
Đặng 
Thai Mai 
(4 GV) 
THPT 
Nguyễn Sĩ 
Sách 
(5 GV) 
Tổng hợp 
kết quả 
Trong bộ 
môn Ngữ 
văn, thầy cô 
thấy bản 
thân dạy 
phần nào là 
khó khăn 
nhất? 
Đọc hiểu 
văn bản 
2 0 1 3 
tiếng Việt 
5 3 3 11 
Làm văn 3 1 1 5 
Nêu rõ lí do tiếng Việt 
khó dạy nhất 
vì nhiều kiến 
thức, chưa có 
phương án 
dạy học hữu 
hiệu, HS 
không chú ý 
tiếng Việt 
khó dạy 
nhất vì 
các kiểu 
bài rất đa 
dạng, 
không thể 
quy về 
những 
kiểu dạng 
cụ thể 
HS chỉ 
thích đọc 
hiểu văn 
bản, coi 
nhẹ phần 
tiếng việt vì 
không có 
tính thực 
tiễn 
 53 
Kết quả khảo sát câu Câu 3: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng Thúc 
Hứa 
 (10 GV) 
THPT 
Đặng Thai 
Mai (4 
GV) 
THPT 
Nguyễn Sĩ 
Sách (5 GV) 
Tổng hợp 
kết quả 
Trong quá 
trình giảng 
dạy phần 
tiếng Việt 
cho HS, GV 
thấy HS yếu 
những kĩ 
năng nào 
nhất? Nêu 
một vài biểu 
hiện cụ thể 
Kỹ năng 
nghe 
0 0 0 0 
Kỹ năng 
nói 
4 (lúng túng 
khi diễn đạt, 
nói như viết, 
không biết 
trình bày ý 
tưởng bằng 
ngôn ngữ) 
2 (phát âm 
chưa 
chuẩn, nói 
ngọng) 
3 (diễn đạt 
không mạch 
lạc, rối rắm, 
các ý sắp 
xếp thiếu 
logic) 
9 
Kỹ năng 
đọc 
2 (Đọc chậm, 
không biết 
ngắt nghỉ 
đúng chỗ, 
không diễn 
cảm) 
0 1 (đọc sai lỗi 
chính tả, 
không chú ý 
đến ngữ 
cảnh) 
3 
Kỹ năng 
viết 
4 (hình thức 
trình bày sơ 
sài, lập luận 
không chặt 
chẽ, thiếu 
liên kết) 
2 (câu cú 
dài dòng, 
cả văn bản 
không có 
dấu chấm 
phẩy) 
1 (lỗi chính 
tả nhiều, viết 
sai phong 
cách văn 
bản) 
7 
 54 
Kết quả khảo sát Câu 4 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng Thúc Hứa 
 (10 GV) 
THPT Đặng 
Thai Mai (4 
GV) 
THPT Nguyễn 
Sĩ Sách (5 GV) 
Nêu các biện 
pháp theo 
thầy cô có thể 
nâng cao hiệu 
quả việc học 
tiếng Việt 
Ý kiến 
của 
cac 
GV 
- “Ở mỗi phần giảng 
trong SGK nên có một 
ngữ liệu, VD dẫn 
chứng, phân tích để 
HS dễ hình dung, đưa 
những bài học tiếng 
Việt có tính thiết thực 
vào SGK.” 
- “Người dạy tiếng 
Việt cần có phương 
pháp tốt: dạy ngắn 
gọn, dễ hiểu, ứng dụng 
nhiều bài tập thực tế, 
hình ảnh sinh động.” 
- “Các bài cần dạy 
hướng vào dạy thực 
hành, giao tiếp trong 
- “Thêm bài 
tập, thêm 
VD.” 
- “Nên cho 
nhiều VD từ 
thực tế vào 
SGK để minh 
họa nội dung 
bài học. ” 
- “Các bài tập 
sau mỗi bài 
học tiếng Việt 
nên lấy từ 
thực tế.” 
- chú ý đến tâm 
sinh lí của HS 
chọn nhiều bài 
tập có tình 
huống, tăng 
nhiều giờ thực 
hành.” 
- “Sưu tầm 
nhiều câu 
chuyện hay, vui 
của tiếng Việt 
đưa vào SGK để 
kích thích tư duy 
HS, đồng thời 
giúp HS thư 
giãn.” 
 55 
Phụ lục 4. 
KẾT QUẢ THU NHẬN TỪ PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN CỦA HS 
TRONG VIỆC DẠY – HỌC TIẾNG VIỆT. 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 1: 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng 
Thúc 
Hứa 
 (60 HS) 
THPT 
THPT 
Đặng Thai 
Mai 
(40 HS) 
THPT 
THPT 
Nguyễn Sĩ 
Sách (50 
HS) 
Tổng 
hợp kết 
quả 
Khi học 
tiếng Việt, 
em cảm thấy 
nội dung 
kiến thức bài 
học như thế 
nào? 
Vừa phải, không 
khó cũng không dễ 
10 5 15 30 
Nhiều, khó hiểu 
25 15 20 60 
Chưa gắn với thực 
tiễn, học chỉ mang 
tính chất “cho 
biết”, cho có mà 
không áp dụng 
được vào đời sống 
25 20 15 60 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 2 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng Thúc 
Hứa 
 (60 HS) 
THPT 
THPT 
Đặng 
Thai Mai 
(40 HS) 
THPT 
THPT 
Nguyễn Sĩ 
Sách (50 
HS) 
Tổng hợp 
kết quả 
Cách dạy 
của GV khi 
dạy học hợp 
phần tiếng 
Việt trong 
SGK Ngữ 
văn như thế 
nào 
Giáo viên 
dạy kĩ, 
thêm ví dụ 
15 15 20 50 
GV dạy qua 
loa, chỉ chủ 
yếu dạy đọc 
hiểu văn 
bản 
45 25 30 100 
 56 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 3 
 Trường 
Câu hỏi 
Đặng Thúc 
Hứa 
 (60 HS) 
THPT 
Đặng 
Thai Mai 
(40 HS) 
THPT THPT 
Nguyễn Sĩ 
Sách (50 
GV) 
Tổng 
hợp kết 
quả 
Dù đã học và nắm 
được các yêu cầu 
sử dụng ngôn ngữ 
tiếng Viêt trong 
giao tiếp hằng 
này nhưng các em 
vẫn yếu kĩ năng 
nào nhất 
Nghe - đọc 10 5 10 25 
Nói - viết 
30 20 20 70 
Nghe - 
viết 
10 5 10 25 
Đọc - nói 10 10 10 30 
Kết quả khảo sát câu hỏi Câu 4 
 Trường 
Câu hỏi 
THPT 
Đặng Thúc Hứa 
 (60 HS) 
THPT Đặng 
Thai Mai (40 
HS) 
THPT Nguyễn 
Sĩ Sách 
(50 HS) 
Em hãy 
thử đề 
xuất một 
số ý kiến 
để môn 
tiếng Việt 
trở nên 
hấp dẫn 
hơn 
Ý kiến 
của cac 
HS 
- “Nội dung bài học 
tiếng Việt nên bám sát 
thực tế cuộc sống hiện 
nay. Phải có những bài 
tập thực tế để HS thực 
hành nói với nhau” 
- “Nên cho nhiều VD 
mang tính thực tế, sinh 
động và phù hợp với 
tâm lý lứa tuổi của 
chúng em.” 
- “GV cần dạy kĩ chỗ 
khó hiểu, cho thêm bài 
tập, VD bám sát bài 
học và thực tế.” 
- “tiếng Việt nên học ở 
phòng có máy chiếu để 
xem các đoạn video 
clip có tình huống 
giống nội dung bài học, 
qua lời thoại của các 
nhân vật chúng em dễ 
hiểu nghĩa của câu nói, 
nhớ lâu nội dung bài 
học, tâm lí học cũng 
thoải mái.” 
- “GV đứng lớp 
cần tạo sự thoải 
mái cho HS, 
cho thêm nhiều 
VD vui vui để 
gây hứng thú 
cho HS, tránh 
tình trạng gây 
mê HS.” 
- “Nên có nhiều 
hình ảnh minh 
họa trong SGK 
để bài học trở 
nên hấp dẫn 
hơn.” 
- “Trong khi 
học nên tổ chức 
thêm 
vài trò chơi.” 
- “Cho nhiều 
VD thực tế có 
liên quan đến 
nội dung bài 
học và gần gũi 
với HS.” 
- “Nên để cho 
HS thảo luận 
nhóm. Cho HS 
tập nói để mạnh 
dạn, tự tin.” 
- “GV nên tìm 
thêm nhiều VD 
hấp dẫn liên 
quan đến bài 
học. Như thế sẽ 
giúp chúng em 
khắc sâu thêm 
kiến thức.” 
- “GV nên tìm 
cách để HS nhận 
ra những gì 
mình cần học và 
sử dụng nhiều 
phương tiện dạy 
học để dễ dàng 
truyền đạt. ” 
(Các HS khác 
không có ý kiến) 
 57 
Phụ lục 5. 
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO ĐỀ TÀI 
Giáo viên đang thực nghiệm giờ dạy 
Sản phẩm báo cáo của nhóm 1 
 58 
 GV đang hỗ trợ nhóm 3 Nhóm 4 đang thực hiện cuộc 
 phỏng vấn nhanh 
 HS đang đối thoại Hoạt động của nhóm 2 
 59 
Cuộc thi đua giữa các nhóm 
HS đóng vai phóng viên 
GV đang quan sát các nhóm 
 60 

File đính kèm:

  • pdfskkn_ren_ki_nang_giao_tiep_cho_hoc_sinh_thong_qua_phan_mon_t.pdf