SKKN Rèn kĩ năng làm tốt bài văn nghị luận Văn học phần thơ hiện đại cho học sinh Lớp 9
Nghị luận văn học là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Làm tốt được bài văn nghị luận văn học là rèn luyện cho học sinh về kỹ năng cảm thụ, phân tích, bình luận, đánh giá nội dung, nghệ thuật của một đoạn thơ, một tác phẩm văn học. Làm tốt bài văn nghị luận văn học còn rèn luyện tư duy về ngôn ngữ, cách diễn đạt chính xác, cách dùng từ chuẩn mực, thuyết phục người khác nhìn nhận vấn đề theo quan điểm đúng đắn, phù hợp với tư tưởng, chủ đề của tác phẩm đồng thời có những liên hệ sát với cuộc sống hàng ngày.
Nghị luận văn học về một đoạn thơ, bài thơ nhằm hình thành, phát triển khả năng lập luận chặt chẽ, trình bày những lí lẽ, dẫn chứng một cách rõ ràng giàu sức thuyết phục. Khi bày tỏ ý kiến bản thân về một tác phẩm thơ nào đó đòi hỏi học sinh cần phải có kiến thức văn học và kĩ năng cơ bản khi viết bài . Nhưng kiến thức và kĩ năng cơ bản đó có từ đâu? Đó chính là từ những bài giảng , từ sự hướng dẫn của giáo viên và từ cách cảm thụ của học sinh. Vì vậy, qua thực tế giảng dạy.Tôi mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm của bản thân trong việc rèn luyện cho học sinh viết bài văn nghị luận văn học phần thơ hiện đại lớp 9. Không những vậy kiểu bài này thường xuyên còn có mặt chính trong các đề thi học sinh giỏi, trong các đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT. Nhằm kiểm tra mức độ hiểu biết của học sinh về các đoạn thơ, bài thơ. Trên cơ sở đó nhằm giáo dục nhân cách cho học sinh, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, tình yêu quê hương đất nước, yêu cái đẹp và bộc lộ được những tâm tư tình cảm của mình thông qua một bài văn nghị luận.
Đã nhiều năm giảng dạy kiểu bài này, tôi vẫn thấy đây là nội dung khó đối với học sinh. Hầu như ít học sinh có thể làm hay, làm tốt, làm đúng được dạng kiểu bài này. Bởi vốn sống của các em chưa nhiều, ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế. Khi làm bài thường nghĩ như thế nào thì viết ra như thế, chứ không biết cách lập luận chắc chắn, rõ ràng cho một vấn đề cụ thể, mà tác giả đặt ra nhằm thu hút sự chú ý của người đọc, người nghe. Điều quan trọng là đối với các em để đạt được số điểm tương đối trong các bài kiểm tra cũng như trong các bài thi học sinh giỏi, thi vào lớp 10 THPT.
Nhưng đối với học sinh THCS đặc biệt là học sinh ở những vùng nông thôn thì kĩ năng viết văn của các em còn nhiều hạn chế: Bài viết rời rạc, khô khan, dùng câu dùng từ chưa chính xác, bố cục chưa rõ ràng, lập luận chưa có sức thuyết phục, vốn từ nghèo nên diễn đạt lủng củng tối nghĩa, dài dòng, không thoát ý, mắc nhiều lỗi chính tả. Từ thực trạng trên , tôi đã tìm tòi, học hỏi bạn bè, đồng nghiệp và mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm “Rèn kĩ năng làm tốt bài văn nghị luận văn học phần thơ hiện đại cho học sinh lớp 9”
Vậy làm thế nào để học sinh nắm chắc và làm được bài nghị luận văn học đạt kết quả cao? Là một giáo viên đã nhiều năm tham gia công tác giảng dạy tôi đã nắm bắt được tình hình này, tôi đã chọn chuyên đề này để nghiên cứu, để có những suy nghĩ sâu sắc hơn, những biện pháp cụ thể hơn, rõ ràng hơn giúp học sinh lớp 9 làm tốt được bài văn nghị luận văn học phần thơ hiện đại và có nhiều hứng thú, say mê với môn hơn hơn. Một lý do nữa khiến tôi chọn chuyên đề này là tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 9 và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn khối 9 nhiều năm. Mặc dù kết quả chưa thật tốt, song đó cũng là một thành công bước đầu của tôi trong việc áp dụng những phương pháp, biện pháp cụ thể rõ ràng, những kinh nghiệm thiết thực giúp học sinh lớp 9 làm tốt bài văn nghị luận văn học phần thơ hiện đại. Tôi hi vọng rằng những kinh nghiệm nhỏ này có ích và được áp dụng rộng rãi trong các nhà trường THCS. Qua việc đưa đề tài vào thực hiện trong năm học 2019-2020, tôi nhận thấy các em có những tiến bộ rõ rệt trong việc làm bài văn nghị luận văn học. Chính vì vậy nên tôi tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu, bổ sung để thực hiện đề tài trong các năm học tiếp theo.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn kĩ năng làm tốt bài văn nghị luận Văn học phần thơ hiện đại cho học sinh Lớp 9
sử dụng hình ảnh gợi tả đặc sắc, thủ pháp sóng đôi. - Từ “Đồng chí”: cách gọi vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, đầy tình cảm, mang hơi thở thời đại mới của cách mạng, kháng chiến. Giọng thơ chùng xuống, lắng đọng, tạo cảm giác thiêng liêng. LĐ 2: Những biểu hiện của tình đồng chí. LC 1: Sự thấu hiểu tâm tư, tình cảm của nhau. - Cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau: vì mục đích chung mà gạt đi niềm riêng tư, để lại sau lưng những gì yêu quý như “ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước gốc đa” - những hình ảnh đại diện cho quê hương.Dù tư thế ra đi dứt khoát, “mặc kệ” nhưng họ vẫn nhớ quê hương da diết. - So sánh mở rộng với bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. LC 2: Sẻ chia những gian lao, thiếu thốn trên chiến trường: + Bệnh sốt rét rừng: “biết từng cơn ớn lạnh”, “run người”, “trán ướt mồ hôi”. + Khó khăn thiếu thốn: áo rách vai, quần vá, không giày, chịu đói rét. - Nghệ thuật: + Liệt kê, tả thực: cụ thể hóa những vất vả trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp, làm nổi bật lên sự sẻ chia, đoàn kết “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. + Tiếp tục sử dụng thủ pháp sóng đôi: “anh” - “tôi” tạo sự song hành, gắn bó giữa những người đồng đội. - Liên hệ mở rộng với tình đồng đội trong bài thơ “ bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật hoặc truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. LĐ 3: Biểu tượng đẹp của tình đồng chí. Ba câu cuối kết thúc bài thơ bằng hình ảnh hai người đồng đội đứng gác trong đêm: - Cảnh hoang vắng “rừng hoang sương muối” làm nổi bật hình ảnh “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”: hiên ngang, chủ động, “chờ” không sợ hãi. - Hình ảnh đặc biệt: “Đầu súng trăng treo” + Gợi tả: hai người lính đứng gác dưới ánh trăng, trăng lặn xuống thấp dần khi trời gần sáng và như treo trên đầu súng. + Đặt hai biểu tượng đối lập trong cùng một câu thơ: “súng” tượng trưng cho chiến tranh, hiện thực; “trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp hòa bình, lãng mạn. Tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu hiểu hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp. - Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh tả thực, cặp hình ảnh đối lập. 3. Kết bài - Kết luận về tác phẩm: Bài thơ miêu tả chân thực những gian khổ thời chiến tranh, ca ngợi tình cảm gắn bó, sẻ chia giữa những người lính, thể hiện khát vọng hòa bình. - Liên hệ thực tiễn: Tình đồng chí, tương thân tương ái đến nay vẫn còn nguyên giá trị, những người còn sống luôn trăn trở, nhớ thương đồng đội đã hi sinh thế hệ trẻ cần luôn tôn trọng, biết ơn những người lính, phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống. 2.4 Muốn viết được đoạn văn hay cần nắm chắc cách viết và ý chính cơ bản về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, văn chương được cấu tạo từ chất liệu là từ ngữ, các câu văn và các đoạn văn. Do đó để viết đoạn văn hay thì chúng ta cần phải có sự tích lũy vốn từ ngữ sao cho thật phong phú và giàu có. Để tích lũy vốn từ ngữ một cách bài bản, đầy đủ và có hệ thống thì phải đọc thường xuyên. Đọc để biết cách dùng từ, các cấu trúc câu hay cách diễn đạt ấn tượng, do vậy khi đọc phải có ý thức tìm hiểu và gom góp vốn từ thì những từ ngữ đó mới lưu lại. Trong quá trình đọc cũng phải lựa chọn nên đọc cái gì và nên ưu tiên đọc sách về tác phẩm văn học để tiếp thu kiến thức, vốn từ cũng như gia tăng khả năng cảm thụ tác phẩm văn học. Ngoài ra để mở rộng phạm vi vốn từ ngữ thì nên đọc thêm báo, tạp chí và sách tham khảo liên quan đến văn học. Một đoạn văn nghị luận văn học được đánh giá là hay thì trước hết phải viết đúng chủ đề và phải bám sát vào tác phẩm văn học mà đề yêu cầu, các luận cứ phải nêu bật được chủ đề chính của đoạn văn. Một vấn đề đặc biệt quan trọng mà cần lưu ý trong quá trình học và viết văn là phải làm sao để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nghĩa là phải dùng từ sao cho chuẩn, có nghĩa và dễ hiểu. Trong những năm gần đây các đề thi vào lớp 10 THPT bao giờ cũng được cấu tạo gồm hai phần. Mỗi phần chính được cấu tạo một đoạn văn nghị luận văn học hoặc nghị luận xã hội. Đối với đoạn văn nghị luận văn học thường kết hợp thêm một số đơn vị kiến thức Tiếng Việt. VD 1. Cho đoạn thơ: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm” (Sách giáo khoa Ngữ văn 9 - Tập một - Trang 132) Bằng một đoạn văn tổng-phân-hợp khoảng 12 câu, hãy nêu cảm nhận của em về tình đồng chí, đồng đội gắn bó sâu sắc và niềm lạc quan của những người lính lái xe trong khổ thơ trên. Lưu ý, đoạn văn có sử dụng một câu ghép và một thành phần biệt lập (gạch chân dưới câu ghép và thành phần biệt lập, chú thích rõ). Để làm hoàn thiện, cảm xúc một đoạn văn cần đảm bảo các yêu cầu sau: *về hình thức phải đảm bảo: - Đúng hình thức đoạn văn tổng-phân-hợp - Đúng số câu, diễn đạt lưu loát, trôi chảy, mạch lạc, không mắc lỗi - Viết đúng và chỉ rõ: Câu ghép, thành phần biệt lập. *về nội dung phải đảm bảo: - Tình đồng chí, đồng đội gắn bó sâu sắc và niềm lạc quan của những người lính lái xe. - Khai thác các tín hiệu nghệ thuật đặc sắc: giọng điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, .... - Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm”. bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn. “Chung bát đũa.” - Từ láy “chông chênh” khắc họa hình ảnh con đường ra trận và cuộc sống gian khổ của người lính lái xe. - Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi tâm hồn chứa chan lạc quan, đầy hi vọng, yêu đời của người lính. - Điệp ngữ “lại đi” như một lời thúc giục lòng mình, khẳng định chiếc xe luôn tiến về phía trước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. - Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng, chứa chan tinh thần lạc quan yêu đời nhưng ấm áp tình cảm của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ. VD 2: Trong bài thơ “Sang thu”, tác giả Hữu Thỉnh có viết: “Vân còn bao nhiêu nắng” Bằng một đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu, em hãy phân tích khổ thơ vừa chép để làm rõ những biến chuyển âm thầm của tạo vật và suy ngẫm về đời người của nhà thơ. Trong đoạn có sử dụng một câu hỏi tu từ và thành phần khởi ngữ. (Gạch chân và chú thích rõ) *về hình thức phải đảm bảo: - Đoạn văn trình bày theo phép lập quy nạp - Đủ số câu: ( ít nhất 11 câu, nhiều nhất 13 câu) - Có câu hỏi tu từ, thành phần khởi ngữ (Gạch chân, chú thích cụ thể mới cho điểm). *về nội dung phải đảm bảo: HS khai thác các tín hiệu nghệ thuật để làm rõ: + Mưa ào ạt chợt đến, chợt đi rồi dần vơi. + Những cơn mưa giông kèm theo sấm chớp cũng vãn dần. - Những biến chuyển của thiên nhiên được thể hiện qua các tính từ chỉ mức độ “vẫn còn, vơi dần, bớt” để cho thấy hạ đã nhạt dần và thu đậm nét hơn. Đó là sự quan sát tinh tế và cảm xúc dâng trào của nhà thơ. - Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ cuối hàm chứa hai tầng ý nghĩa + Nghĩa tả thực: sang thu, sấm thưa và nhỏ dần nên hàng cây không còn bị giật mình, bị bất ngờ vì tiếng sấm. + Nghĩa ẩn dụ: Sấm là tượng trưng cho những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi là tượng trưng cho những con người từng trải, dày dạn kinh nghiệm. -Khi con người từng trải, dày dạn kinh nghiệm thì sẽ vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Hay đó còn là hình ảnh của con người và đất nước việt Nam trải qua bao mưa bom bão đạn vẫn vững vàng tiến lên phía trước. VD 3: Cho đoạn thơ: “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.” Dựa vào đoạn thơ trên hãy viết một đoạn văn khoảng 12 câu theo kiểu Tổng - Phân -Hợp làm rõ hình tượng vầng trăng. Trong đoạn văn có sử dụng câu ghép và thành phần phụ chú (gạch chân chỉ rõ) *Về hình thức phải đảm bảo: - Đúng kiểu đoạn tổng - phân - hợp, đủ số câu - Có dùng câu ghép (Gạch chân chỉ rõ) - Có dùng thành phần phụ chú (Gạch chân chỉ rõ) *về nội dung phải đảm bảo: HS biết khai thác tín hiệu nghệ thuật trong 8 câu thơ làm rõ hình tượng vầng trăng. - Tư thế của vầng trăng. - Biểu tượng cho thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu. - Biểu tượng cho quá khứ gian lao nghĩa tình, cho vẻ đẹp vĩnh hằng của đời sống. - Là người bạn, nhân chứng nghĩa tình nhắc nhở con người lẽ sống 3. Kết quả nghiên cứu. Việc hướng dẫn học sinh nhận diện đề và cách làm bài bài văn nghị luận văn học, trước hết giúp các em nhận diện được yêu cầu của đề bài, từ đó biết cách làm bài văn nghị luận, đoạn văn nghị luận văn học ứng với mỗi dạng đề. Khi các em biết cách nhận diện đề và cách làm bài văn nghị luận văn học sẽ giúp các em dễ dàng định hướng cách làm bài, nâng cao năng lực tư duy trong giờ thực hành làm văn nghị luận. Việc đem kinh nghiệm vào áp dụng trong thực tế giảng dạy tôi đã thu được những kết quả rất tích cực. Điểm các bài kiểm tra đạt yêu cầu, chất lượng cao hơn rõ rệt so với khi chưa áp dụng. Hơn thế một số em trở nên yêu thích bộ môn, biết cách làm tốt bài nghị luận văn học và say mê hơn đối với bộ môn. Chính vì thế các tiết học trở nên sôi nổi hơn nhiều bài của học sinh có sự sáng tạo, cảm xúc. Các em tham dự đội tuyển học sinh giỏi bước đầu đã có kết quả và kết quả thi vào 10 THPT nhất định sẽ được nâng lên. Cụ thể: - Lớp giảng dạy: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 9A 32 15 46,9% 13 40,6% 4 12,5% 0 9D 24 4 16,6% 10 41,7% 10 41,7% 0 - Học sinh đạt giải: Học sinh giỏi bộ môn Ngữ Văn cấp Huyện 1. Nguyễn Minh Ngọc - Giải KK 2. Phan Thu Trang - Giải KK 3. Nguyễn Thị Hải Yến - Giải KK Với kết quả của bài kiểm tra về nghị luận văn học về đoạn thơ, bài thơ hiện đại và kết quả kỳ thi học sinh giỏi cấp Huyện đã phần nào minh chứng cho sự thành công bước đầu của đề tài mà tôi thực hiện. Kết quả đó đã khích lệ tôi tiếp tục phát huy những điểm mạnh của đề tài chất lượng bài viết về văn nghị luận văn học của học sinh và kết quả học sinh đạt học sinh giỏi cấp Huyện bộ môn cao hơn nữa trong những năm học sau. PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Thực tế giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi và ôn thi vào lớp 10 THPT trong nhiều năm qua giúp tôi nhận ra rằng, tố chất hết sức quan trọng. Song trên thực tế, không có một tài năng nào tự nó có thể đi đến thành công. Bởi thế, vai trò người thầy là hết sưc quan trọng. Việc cung cấp các kiểu bài lí thuyết, các phuơng pháp, các bước làm bài của kiểu bài này không phải dễ dàng. Do đó, đối với giáo viên đứng lớp phải có sự say mê, sáng tạo trong cách dạy. Giáo viên phải bằng mọi phương pháp để hình thành trong nhận thức của các em về cách nhận diện đề, cách lập dàn bài, các bước làm bài cũng như cách bộc lộ cảm xúc, hiểu và viết đúng về tư tưởng, tình cảm của nhà thơ, của tác phẩm. Giúp cho các em sau khi học xong phần văn nghị luận văn học có cách phân biệt được dạng đề này với dạng đề văn nghị luận khác với các dạng văn khác mà các em đã học. Bởi việc nắm chắc phương pháp giảng dạy và kĩ năng làm bài luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công. Muốn vậy, người thầy phải nêu cao vai trò “tự học, sáng tạo” để tích luỹ kiến thức cần thiết để vừa có kiến thức giảng dạy vừa có phương pháp hướng dẫn làm bài rõ ràng, chi tiết. Đặc biệt hiểu biết và nắm chắc các tác phẩm văn học trong chương trình, đặc biệt là thơ hiện đại. Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh làm tốt bài văn nghị luộn văn học. Để có những kinh nghiệm này tôi đã mất không ít thời gian sưu tầm nghiên cứu tài liệu. Sau một thời gian vận dụng đề tài này vào việc dạy học bộ môn Ngữ Văn cho học sinh lớp 9, đến nay chất lượng dạy học được nâng lên một bước, số lượng học sinh yêu thích học văn nhiều hơn trước, tham gia thi học sinh giỏi đạt nhiều hơn và chất lượng thi vào lớp 10 bộ môn cũng ngày càng được nâng cao. Mặc dù đã thu được kết quả như vậy song đối với tôi đó mới chỉ là bước đầu và cũng còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi tin rằng việc áp dụng đề tài: Giúp học sinh làm tốt bài nghị luận văn học phần thơ hiện đại lớp 9 đã đem lại kết quả tốt hơn trong giảng dạy Ngữ Văn. Đặc biệt, đây là một phần hết sức quan trọng trong rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản, và đây cũng là một phần không thể thiếu trong bài thi vào lớp 10 THPT tới đây của học sinh. 2. Khuyến nghị Đối với giáo viên. Sự tích lũy kiến thức văn học của học sinh là một quá trình lâu dài không phải một sớm một chiều mà là cả một quá trình trải nghiệm, tiếp nhận kiến thức. Vì thế nói hướng dẫn tích lũy kiến thức văn học trong một thời gian ngắn quả là điều khó khăn bởi vốn sống của các em chưa nhiều, chưa rộng. Vì vậy, giáo viên phải biết định hướng vùng kiến thức để các em kịp thời xâu chuỗi, bổ sung thông qua sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè, người thân, thầy cô... Người giáo viên cần phải có lòng yêu nghề, hết lòng vì học sinh. Chuẩn bị bài chu đáo hệ thống câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, sát với mục tiêu của bài và phải phát huy được tính tích cực của học sinh. Nghiên cứu, tham khảo tài liệu, sách báo để bổ sung kiến thức cho bản thân. Tham khảo các bài dạy ở trang web của PGD và trên mạng internet để góp thêm tư liệu cho bài giảng của mình thêm sinh động hơn. Dự giờ, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao tay nghề. Cần quan tâm chú trọng đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém. Truyền thụ đúng, đủ, chính xác, những kiến thức trọng tâm kết hợp lí thuyết với thực hành trong phân môn Tập làm văn. Đối với học sinh. Yêu cầu đối với các em là phải đọc sách nhiều hơn, am hiểu tác phẩm sâu hơn, phải thường xuyên luyện tập, viết nhiều, đọc nhiều sẽ giúp tăng vốn từ cũng như khả năng diễn đạt Việc lập dàn ý là rất quan trọng nên bắt buộc phải làm trước khi đặt bút viết đoạn văn, bài văn. Tránh trường hợp đặt bút viết bừa theo cảm hứng sẽ khiến bài văn bị lan man, dễ lạc đề. Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học vừa qua. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để tôi có thêm kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt bài văn nghị luận văn học phần thơ hiện đại lớp 9 đạt kết quả cao hơn. (Tôi xin cam đoan đây là đề tài của mình, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm) Tôi xin chân thành cảm ơn! Phú Châu, ngày 20 tháng 6 năm 2020 Người thực hiện Phạm Thị Minh Tú Phần/ Mục Nội dung Trang PHẦN I MỞ ĐẦU 1 I Lý do chọn đề tài 1 II Mục đích nghiên cứu 2 III Đối tượng, phương pháp nghiên cứu 2 IV Thời gian và phạm vi nghiên cứu: 3 V Số liệu điều tra trước khi thực hiện 3 PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 I I. Cơ sở của việc chọn sáng kiến. 3 1 Cơ sở lí luận. 3 2 Cơ sở thực tiễn. 4 II Quá trình thực hiện đề tài 5 1 Khảo sát thực tế: 5 2 Những giải pháp thực hiện 6 2.1 Hướng dẫn học sinh nắm chắc lí thuyết làm bài văn nghị luận văn học đặc biệt là nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ hiện đại. 6 2.2 Muốn viết văn hay thì phải nắm rõ các kỹ năng cơ bản 6 2.3 Muốn viết được bài văn hay cần lập dàn bài cụ thể, chi tiết. 8 2.4 Muốn viết được đoạn văn hay cần nắm chắc cách viết và ý chính cơ bản về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. 10 3 Kết quả nghiên cứu 13 PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 14 1 Kết luận 14 2 Khuyến nghị 14 PHỤ LỤC 16
File đính kèm:
skkn_ren_ki_nang_lam_tot_bai_van_nghi_luan_van_hoc_phan_tho.docx
SKKN Rèn kĩ năng làm tốt bài văn nghị luận Văn học phần thơ hiện đại cho học sinh Lớp 9.pdf

