SKKN Rèn kỹ năng làm dạng bài Đọc hiểu môn Ngữ Văn trong bài thi tốt nghiệp THPT
Dạng bài Đọc hiểu trong bài thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn không được đưa vào tiết học nào trong phân phối chương trình môn Ngữ văn phổ thông chính khóa, thường chỉ dừng lại ở việc chữa, trả bài qua các bài kểm tra định kì, bài thi. Hiện nay các chuyên đề hướng dẫn việc rèn luyện kĩ năng này cho học sinh một cách bài bản cũng chưa nhiều.
Việc ôn luyện, chữa bài cho phần Đọc hiểu còn chưa thực sự được chú trọng, do quan niệm cho rằng đây là câu gỡ điểm nên thường đơn giản, không cần học cũng có thể trả lời được. Nếu có đề cao tầm quan trọng của dạng bài thì nhiều giáo viên và học sinh vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết thấu đáo vấn đề kĩ năng. Kinh nghiệm thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh không hề dễ dàng trong việc đạt mức điểm cao của các câu hỏi trong phần Đọc hiểu, dù cho rằng đây là phần “gỡ điểm” và “dễ làm”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn kỹ năng làm dạng bài Đọc hiểu môn Ngữ Văn trong bài thi tốt nghiệp THPT

4. Học sinh được quyền thể hiện quan điểm cá nhân. Gợi ý: * Cách giải quyết 1: Không nên kỳ thị và phân biệt chủng tộc đối với người Trung Quốc và người châu Á trong đại dịch vì dễ dấn đến các hậu quả: + Làm tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần của người bị kì thị, phân biệt + Khiến dịch bệnh lây lan nhanh hơn: vì sợ bị kì thị và phân biệt nên người có nguy cơ nhiễm bệnh hoặc đã nhiễm bệnh không thực hiện các biện pháp phòng chống, cách li cộng đồng (số ca bệnh và số người chết tăng nhanh kỉ lục ở châu Âu minh chứng cho điều này) + Nghiêm trọng hơn, chủ nghĩa dân tộc bị xúc phạm cũng dễ dẫn đến bất ổn chính trị giữa các nước,... * Cách giải quyết 2 (HS có thể đưa ra): Sự kì thị và phân biệt chủng tộc đối với người Trung Quốc và người châu Á trong đại dịch là có thể hiểu được; và ở một phương diện nào đó giúp người dân tránh xa nguồn bệnh (Thực tế chứng minh, đây không phải cách hiểu đúng, GV cho điểm tùy vào khả năng diễn đạt, lập luận của HS) .. Đề số 8. Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Con người chúng ta rất chuyên chú vào chính bản thân mình. Ta có xu hướng nghĩ rằng làm người, theo cách nào đó, là rất đặc biệt và quan trọng, vì vậy, ta cứ băn khoăn về nó, thay vì hỏi rằng làm một con voi, con heo hay một con chim thì nghĩa là gì. Sự thiếu vắng nỗi tò mò này thuộc về một vấn đề đạo đức rộng lớn. Chúng ta sống chung hành tinh với hàng tỉ sinh thể có cảm giác khác và chúng đều có những cách thức phức tạp của riêng mình để tồn tại, bất kể chúng là gì. Mọi động vật trong thế giới của chúng ta, như Aristotle quan sát và nhận định từ lâu, đều cố gắng để sống sót và sinh sôi nảy nở nhiều hơn. Tất cả các loài vật này đều có khả năng tri nhận, đều có ham muốn. Và hầu hết đều di chuyển từ nơi này đến nơi khác để kiếm những gì chúng muốn và cần. Loài người chúng ta giờ đây thống trị địa cầu đến nỗi chúng ta hiếm khi cảm thấy mình cần sống với những loài vật khác trong quan hệ tương hỗ. Các loài vật được thuần hóa chiếm một vị trí ưu tiên, nhưng kể cả như thế, chúng thường bị đối xử một cách tàn nhẫn (hãy nghĩ đến những con chó hoang hay mèo hoang bị ruồng bỏ). Những trang trại lợn, gà và các loài động vật khác là một hình thức tương đối mới của sự tàn nhẫn bị che giấu. Còn đối với những sinh vật “hoang”, chúng ta có thể thấy tội ác của loài người chúng ta đã dẫn đến những hệ quả lớn đối với chúng: những tổn hại đến từ các phòng thí nghiệm sử dụng các động vật; những tác hại nhiều mặt có tính chất đặc thù từ việc giam nhốt khỉ và voi trong các vườn bách thú; sự giảm sút số lượng cá voi do việc đánh bắt bằng lao móc Thế giới cần đến một cuộc cách mạng về đạo đức, một phong trào khơi dậy ý thức trên quy mô toàn cầu đúng nghĩa. Nhưng cuộc cách mạng này lại bị cản trở bởi quán tính của con người vốn xem mình luôn là trung tâm. Hãy nỗ lực cho một thời đại mới mà việc làm người cũng có nghĩa là liên đới với những giống loài khác cũng đang chung sống với ta trên thế giới này. (Trích: Martha C. Nussbaum - “Làm người nghĩa là gì?” - Xin ngừng hỏi câu ấy! Nguồn: https://hieutn1979.wordpress.com) Câu 1. Xác định nội dung của văn bản trên? (0.5 điểm) Câu 2. Chỉ ra điểm chung của các “sinh thể có cảm giác” được đề cập đến trong văn bản. (0.5 điểm) Câu 3. Tại sao tác giả cho rằng “Thế giới cần đến một cuộc cách mạng về đạo đức, một phong trào khơi dậy ý thức trên quy mô toàn cầu đúng nghĩa”? (1.0 điểm) Câu 4. Theo anh/chị, cuộc cách mạng nói trên “bị cản trở bởi quán tính của con người vốn xem mình luôn là trung tâm” như thế nào? (1.0 điểm) Gợi ý làm bài Câu 1. Nội dung của văn bản: Hệ quả của việc con người luôn xem mình là trung tâm và sự cần thiết của một cuộc cách mạng về đạo đức. Câu 2. Điểm chung của các “sinh thể có cảm giác” được đề cập đến trong văn bản: + Có những cách thức phức tạp của riêng mình để tồn tại + Cố gắng để sống sót và sinh sôi nảy nở nhiều hơn + Có khả năng tri nhận, có ham muốn + Di chuyển từ nơi này đến nơi khác để kiếm những gì chúng muốn và cần Câu 3. Tác giả cho rằng “Thế giới cần đến một cuộc cách mạng về đạo đức, một phong trào khơi dậy ý thức trên quy mô toàn cầu đúng nghĩa” vì: - Hầu hết chúng ta thiếu vắng hiểu biết về “một vấn đề đạo đức rộng lớn”: quan tâm đến đời sống của các loài khác như đời sống của chính loài người. - Điều đó dẫn đến việc “chúng ta hiếm khi cảm thấy mình cần sống với những loài vật khác trong quan hệ tương hỗ”, làm tổn hại đến các loài động vật. - Nhiều phong trào bảo vệ động vật đã được thực hiện nhưng chưa “đúng nghĩa” vì bị cản trở bởi việc con người luôn xem mình là trung tâm. Câu 4: Cuộc cách mạng nói trên “bị cản trở bởi quán tính của con người vốn xem mình luôn là trung tâm”: - Con người xem mình là trung tâm của thế giới: loài động vật bậc cao, có đủ phẩm chất để làm chủ thế giới (vẻ đẹp thể chất, tâm hồn, trí tuệ, giao tiếp, tư duy, lao động,) => tự cho mình mình quyền khai thác và phá hủy hệ sinh thái, trong đó có các loài vật khác. Nhận thức trên đã trở thành “quán tính”, ý nói cố hữu, luôn như vậy từ trước tới nay, khó dừng lại (khó thay đổi, tác động). - Do đó cuộc cách mạng về đạo đức bị cản trở: + Không nhận thức được sẽ không có hành động + Nếu có hành động thì cũng nhỏ lẻ, nửa vời (không thể trở thành quy mô toàn cầu, không triệt để) .. Đề số 9. Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Đừng bảo con cố gắng Đừng bảo con cố gắng có cuộc đời phi thường. Sự cố gắng đó có thể đáng ngưỡng mộ nhưng cũng thể hiện cái ngốc nghếch. Thay vào đó, giúp con tìm thấy sự kì diệu và màu nhiệm của cuộc sống bình thường. Cho con thấy niềm vui được nếm hương vị của cà chua, táo, lê. Cho con biết xót thương khi thú cưng hay ai đó đi xa. Cho con cảm nhận sự ấm áp bất tận của bàn tay chạm. Và khiến những điều bình thường trở nên sống động vì con. Điều phi thường sẽ tự nhiên mà đến. (William Martin, Do not ask your children to strive, Trương Phạm Hoài Chung dịch) Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ nào? (0.5 điểm) Câu 2. Theo tác giả, trẻ em có thể tìm thấy “sự kì diệu” và “màu nhiệm của cuộc sống đời thường” ở những đâu? (0.75 điểm) Câu 3. Anh/chị hiểu ý thơ ở cuối bài: “Điều phi thường sẽ tự nhiên mà đến” như thế nào? (0.75 điểm) Câu 4. Anh/chị có cho rằng việc “cố gắng có cuộc đời phi thường” thể hiện sự “ngốc nghếch” hay không? Tại sao? (1.0 điểm) Gợi ý làm bài Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ tự do. Câu 2. Theo tác giả, trẻ em có thể tìm thấy “sự kì diệu” và “màu nhiệm của cuộc sống đời thường”: + trong hương vị của cà chua, táo, lê + trong sự xót thương khi thú cưng hay ai đó đi xa. + khi cảm nhận sự ấm áp bất tận của bàn tay chạm. Câu 3. Ý thơ ở cuối bài: “Điều phi thường sẽ tự nhiên mà đến”có thể được hiểu như sau: Khi trẻ em biết trân trọng và yêu quý cuộc sống (qua việc phát hiện ra sự “kì diệu” và “màu nhiệm” của cuộc sống bình thường), thì sẽ không cần phải “cố gắng” để có cuộc đời phi thường nữa: + Người nào tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống hằng ngày (mà rất nhiều người trong số chúng ta luôn cảm thấy đơn điệu, vô vị, thậm chí đau khổ,) nghĩa là họ đã được sống một cuộc đời phi thường. + Thành tựu sẽ đến dù cho họ có mong cầu hay không, vì tình yêu và sự trân quý cuộc sống sẽ luôn thôi thúc con người được sống hết mình và cống hiến cho đời. Câu 4. Học sinh được quyền thể hiện quan điểm cá nhân. Gợi ý: * Cách giải quyết 1: Có thể hiện sự “ngốc nghếch” ở chỗ: Dù vì mục đích cá nhân (được yêu quý, được tung hô, được thỏa mãn cái “tôi”) hay mục đích lớn lao hơn (đóng góp cho cộng đồng) thì trong quá trình cố gắng trở nên phi thường, nhiều lúc chúng ta vẫn bỏ qua, hoặc phải đánh đổi những điều ý nghĩa của cuộc sống bình thường. * Cách giải quyết 2 (HS có thể đưa ra): Không thể hiện sự “ngốc nghếch” vì không ai tự nhiên trở nên phi thường cả, đó cũng là mong muốn rất dễ hiểu và dễ thông cảm của mỗi con người. Sự thành công nào cũng phải trả giá (Quan điểm khác với nội dung của văn bản đọc hiểu) Ở cách 2, GV cho điểm tùy vào sự thuyết phục trong lập luận của HS. .. Đề số 10. Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay... ( Bên kia sông Đuống- Hoàng Cầm) Câu 1. Hãy chỉ ra những từ láy được tác giả sử dụng trong đoạn thơ. (0.5 điểm) Câu 2. Vẻ đẹp của quê hương tác giả được gợi lên từ những từ ngữ, hình ảnh nào? (0.5 điểm) Câu 3. Câu thơ: “ Sao xót xa như rụng bàn tay...” sử dụng biện pháp tu từ nào? Giá trị biểu cảm của biện pháp tu từ đó. (1.0 điểm) Câu 4. Sông Đuống là cảm hứng về quê hương của Hoàng Cầm. Anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 7 - 10 câu) nói về cảm hứng của các nhà văn, nhà thơ về những dòng sông. (1.0 điểm) Gợi ý làm bài Câu 1. Những từ láy được sử dụng trong đoạn văn thơ là: Lấp lánh, nghiêng nghiêng, xanh xanh, biêng biếc, xót xa. Câu 2. Vẻ đẹp quê hương của tác giả được gợi lên từ những từ ngữ, hình ảnh: cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, nằm nghiêng nghiêng, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc. Câu 3. - Trong câu thơ: “Sao xót xa như rụng bàn tay”, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh. - Tác dụng: Diễn tả một cách cụ thể cảm giác bàng hoàng, đau đớn (như mất đi một phần thân thể) của nhà thơ khi nghe tin quê hương rơi vào tay giặc. Qua đó, nhà thơ bày tỏ tình cảm gắn bó sâu nặng, máu thịt với quê hương. Câu 4. Học sinh vận dụng những kiến thức đã học, những trải nghiệm văn học về đề tài sông nước để viết đoạn văn nói về cảm hứng của các nhà văn, nhà thơ về những dòng sông (Nhớ con sông quê hương - Tế Hanh, Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân, Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường,). Đoạn văn có thể trình bày đoạn văn theo nhiều cách khác nhau song cần tập trung làm nổi bật được cảm hứng yêu mến, tự hào, ngợi ca, của các tác giả về những dòng sông. . Đề số 11. Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Mũi Cà Mau: Mầm đất tươi non Mấy mươi đời lấn luôn ra biển; Phù sa vạn dặm tới đây tuôn. Lắng lại; và chân người bước đến Tổ quốc tôi như một con tàu Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau Những dòng sông rộng hơn ngàn thước. Trùng điệp một màu xanh lá đước. Đước thân cao vút, rễ ngang mình Trổ xuống nghìn tay, ôm đất nước! Tổ quốc tôi như một con tàu, Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau. (Mũi Cà Mau – Xuân Diệu) Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn thơ? (0.25đ) Câu 2. Vì sao nhà thơ Xuân Diệu gọi Mũi Cà Mau là “mầm” mà không gọi là mảnh hay miền đất? Hình ảnh “Mầm đất” đó liệu có còn đúng nữa không trong tương lai? (0.5đ) Câu 3. Xác định và chỉ ra hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ: (0.5đ) Tổ quốc tôi như một con tàu Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau Câu 4. Từ hình ảnh “Tổ quốc – con tàu” của Xuân Diệu hãy liên tưởng đến một vài hình ảnh đẹp khác về Tổ quốc qua những trải nghiệm thơ ca của anh/chị? (0.25đ) Gợi ý làm bài Câu 1. Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn thơ bao gồm: tự sự, miêu tả, biểu cảm. Câu 2. Nhà thơ gọi "Mũi Cà Mau" là "mầm" bởi sự lớn dần, ngày càng phình to của miền đất bồi này Phù sa vạn dặm tới đây tuôn/ Lắng lại; và chân người bước đến. Hình ảnh "mầm đất" đó sẽ vẫn đúng nếu nhân loại chung tay bảo vệ, "cứu" trái đất ra khỏi thảm họa biến đổi khí hậu và sẽ không còn đúng nếu tình trạng biến đổi khí hậu không được kiểm soát, ngăn chặn. Câu 3. - Biện pháp tu từ: so sánh. - Hiệu quả: đem đến cho người đọc một liên tưởng hết sức mới mẻ và đẹp đẽ về Tổ quốc, đồng thời bày tỏ tình yêu thương vô bờ với mảnh đất nơi đầu súng ngọn gió. Câu 4. Những hình ảnh đẹp khác về Tổ quốc: Tổ quốc - bông sen; Tổ quốc - bà mẹ; Tổ quốc - người con gái... trong thơ Tố Hữu; Tổ quốc - cây tre trong thơ Nguyễn Duy... .. Đề số 12. Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi: MỘT TIA HY VỌNG để tặng người tuyệt vọng Những đêm không trăng sao Những ngày không nói năng Những người đang khó khăn Những kỳ mưa bão lâu Những quầng con mắt sâu Những bàn tay với lên Những thời gian tối đen Những đời không ánh đèn. Em ơi em Những khúc sống đang dầm mưa dãi gió Khi người ta chỉ còn chết mà thôi Ta hãy giữ chỉ một tia hy vọng Một tia thôi để thắng và yêu. (Trích: Trần Dần, thơ, NXB Đà Nẵng và công ty Nhã Nam, 2008) Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ nào? (0.5điểm) Câu 2. Cho biết hiệu quả của phép điệp được sử dụng ở đoạn (1)? (0.75điểm) Câu 3.Theo anh/chị, tại sao tác giả đưa ra lời khuyên cho người tuyệt vọng rằng chỉ cần giữ “một tia hy vọng/ để thắng và yêu”? (0.75điểm) Câu 4. Anh/chị có nghĩ rằng chỉ “những người tuyệt vọng” mới cần giữ niềm hy vọng hay không? Tại sao? (1.0 điểm) Gợi ý làm bài Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ tự do. Câu 2. Hiệu quả phép điệp được sử dụng ở đoạn (1): + Nhấn mạnh ý diễn đạt: nỗi đau khổ tưởng như kéo dài lê thê của rất nhiều số phận đang sống trong tuyệt vọng. + Tạo giọng điệu buồn thương, não nề. Câu 3. Hy vọng là điều cuối cùng người ta có thể làm khi rơi vào bước đường cùng, nhưng cũng chính vì thế mà nó mang đầy sức mạnh: níu kéo lòng ham sống, yêu mến cuộc sống trong giờ phút khắc nghiệt nhất của số phận; vì người đó không có gì để mất nhưng cũng có tất cả: khao khát sống, khao khát “thắng và yêu”. Câu 4. Không chỉ những người tuyệt vọng mới cần giữ niềm hy vọng, tất cả chúng ta, ngay cả trong hạnh phúc cũng cần đến ngọn lửa của hy vọng, để tiếp tục sống. Đó là hạt giống cuối cùng còn sót lại trong chiếc hộp Pandora (theo thần thoại Hy Lạp), giữ gìn nó, chúng ta đều sẽ chống lại được mọi thứ xấu xa: chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, d. Kết quả khi thực hiện giải pháp Đối tượng áp dụng Số học sinh đã nghiên cứu đề được giao Số học sinh có tiến bộ về tư duy trong số các học sinh đã tự nghiên cứu đề Lớp 12 Toán 25 10 Lớp 11 Sử Địa 15 5 Bảng số liệu cho thấy kết quả thực hiện giải pháp 3, tính đến tháng 2 năm học 2020 – 2021 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến a. Đối tượng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng trong lĩnh vực giáo dục dành cho học sinh Trung học phổ thông, tập trung vào đối tượng học sinh lớp 12 chuẩn bị bước vào kì thi Tốt nghiệp 2021. b. Phạm vi áp dụng của sáng kiến: Trong dạy học, kiểm tra và thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn. 7. 3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến: Thực tế sáng kiến đã được chúng tôi áp dụng những năm vừa qua, trên nhiều đối tượng học sinh, đem lại hiệu quả nhất định. Sáng kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn tại trường THPT Chuyên Bắc Giang, không chỉ phục vụ cho các kì thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn qua các năm, mà còn hướng tới mục tiêu giáo dục của môn học và của giáo dục nói chung: gìn giữ, phát triển niềm hứng thú với việc tư duy. * Cam kết: Chúng tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan, đơn vị (Chữ ký dấu) Tác giả sáng kiến (Chữ ký và họ tên)
File đính kèm:
skkn_ren_ky_nang_lam_dang_bai_doc_hieu_mon_ngu_van_trong_bai.docx