SKKN Rèn luyện kĩ năng đối thoại cho học sinh trong giờ Ngữ Văn ở Trường THPT
Môn Ngữ văn là môn học rất quan trọng trong nhà trường THPT bởi nó không chỉ dạy cho các em kiến thức mà còn giáo dục đạo đức, nhân cách và cả kĩ năng sống cho các em sau này. Nhưng có một thực trạng đáng buồn là hiện nay, các em học sinh đang mất dần hứng thú về môn học này. Thực trạng trên hội tụ rất nhiều nguyên nhân và đang được giới chuyên môn bàn luận, nghiên cứu. Chuyên đề này không đi sâu nghiên cứu thực trạng đáng buồn đó mà chỉ đưa ra một số giải pháp để tìm lại niềm đam mê cho các em về môn học này mà thôi.
Nâng cao chất lượng dạy học nói chung và nâng cao chất lượng môn Ngữ văn trong nhà trường THPT nói riêng là yêu cầu bức thiết không chỉ của ngành Giáo dục mà của toàn xã hội trong xu thế hội nhập hiện nay. Trong thời đại bùng nổ và phát triển thông tin như vũ bão, thật sai lầm khi người thầy bắt người học sinh phải nhớ, phải thuộc nguyên xi những kiến thức mà mình đã truyền đạt vì điều này hạn chế tư duy khái quát và khả năng sáng tạo của học sinh.
Giờ đây, học sinh sẽ không còn khổ sở vì phải học theo kiểu: cứ đến giờ đi học, thì cầm tập lên lớp, giáo viên cứ đọc và học sinh cứ chép, về học thuộc. Học sinh sẽ được học theo phương pháp giảng dạy mới với phương châm lấy học sinh làm trung tâm. Để thực hiện được điều này, giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt sao cho phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là tìm lại hưng phấn, hứng thú cho các em trong một giờ dạy. Đó chính là thành công của một giáo viên tâm huyết trong một giờ dạy Ngữ văn.
Với mục đích đem lại sự hưng phấn, thích thú cho học sinh, đặc biệt là làm cho các em thật sự động não, nói ra những suy nghĩ, những trăn trở thậm chí phải tranh luận để đi đến chân lí của nhận thức, tôi đã có một mong muốn, đúc rút thành một chuyên đề mang tính chất cá nhân, đó là “Rèn luyện kĩ năng đối thoại cho học sinh trong giờ Ngữ văn ở trường THPT”. Làm được điều này, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cả thầy và trò trong giờ dạy học Ngữ văn ở nhà trường THPT sẽ được phát huy rất cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn luyện kĩ năng đối thoại cho học sinh trong giờ Ngữ Văn ở Trường THPT
ngày hai mà phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài, bền bỉ. Quá trình đó có sự đóng góp tích cực của người thầy trong khâu soạn giảng và kĩ năng đứng lớp. Sau đây tôi xin trình bày một số kinh nghiệm của bản thân được đúc rút từ thực tiễn dạy học nhằm làm cho các em có được kĩ năng đối thoại trong giờ dạy học Ngữ văn ở nhà trường THPT. 1. Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm Văn chương là một môn học nghệ thuật có khả năng khơi gợi cảm xúc, suy ngẫm, tưởng tượng... Tác phẩm văn chương luôn gợi ra một chân trời mới lạ trước mắt người đọc. Muốn đến với chân trời mới lạ ấy phải bắt đầu bằng việc đọc và phải đọc hay, đọc diễn cảm. Đây là hoạt động đầu tiên để thổi hồn vào tác phẩm. Là một hình thức hoạt động có tính chất đặc thù của nhận thức về văn học. Tiếng nói của nhà văn gởi gấm cho bạn đọc thông qua hệ thống ngôn ngữ kết dệt nên hình tượng của tác phẩm. Đọc tác phẩm văn chương là một cách giải mã văn bản. Khi tiếp xúc với tác phẩm, người đọc cảm thấy mình đang hòa nhập, được sống cùng với nhân vật, yêu thương, cảm thông với những số phận nhân vật tội nghiệp; căm ghét, bất bình với những xấu xa, tội lỗi. Trong giảng dạy, bằng sức mạnh riêng của đọc, đặc biệt là đọc diễn cảm, giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào thế giới tác phẩm một cách dễ dàng. Đọc diễn cảm gắn bó với giáo viên, học sinh trong suốt quá trình giảng văn, làm cho tiếng nói nhà văn luôn luôn gần gũi với giáo viên, học sinh. Giờ giảng văn trở thành một cuộc tâm tình, một cuộc trao đổi thật sự giữa nhà văn- tác phẩm- giáo viên- học sinh. Tôi cho rằng đây là khâu đầu tiên và quan trọng nhất của người giáo viên dạy văn. Đọc diễn cảm, người thầy như thổi hồn vào giờ dạy, khơi gợi hứng thú, niềm đam mê đối với giờ học để rồi sau đó các em bắt chước đọc hay, đọc diễn cảm như mình. Đọc diễn cảm còn có tác dụng gợi ra những định hướng đúng đắn ban đầu trước khi bắt tay vào tìm hiểu tác phẩm. Ví dụ: Khi nghe thầy giáo, cô giáo hoặc một bạn học sinh trong lớp đọc bài thơ, đoạn văn rất hay, rất diễn cảm, học sinh sẽ trầm trồ khen ngợi. Đây là những cảm xúc, những ấn tượng ban đầu để các em đi sâu xâm nhập vào thế giới nghệ thuật trong văn bản. Những ấn tượng, những cảm xúc này có thể được gọi ra, nói ra nếu giáo viên biết cách khai thác. Chẳng hạn: Sau khi nghe và đọc bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, em có những cảm nhận gì? Trình bày suy nghĩ, cảm xúc của em sau khi đọc xong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh?... Sau những câu hỏi này, các em có thể tự do, chân thành bộc bạch những suy nghĩ, cảm xúc của mình về tác phẩm. Giáo viên chú ý gọi những em yếu trước, sau đó mới đến khá, giỏi để cả lớp nghe và đối chiếu. Giáo viên phải biết uốn nắn, nhận xét những câu trả lời lủng củng, thiếu trọng tâm, thậm chí cả sai lệch để giúp cho các em lấy lại tự tin trong quá trình đối thoại và tiếp nhận. 2. Sử dụng những câu hỏi gợi mở và tình huống nêu vấn đề Để phát triển sự hiểu biết của học sinh, giúp các em độc lập suy nghĩ, người thầy cần sử dụng nhiều câu hỏi gợi mở và tình huống nêu vấn đề. Trong cùng một tình huống, cùng một vấn đề nhưng cách xem xét và giải quyết vấn đề ở từng học sinh sẽ khác nhau. Nhu cầu đối thoại, tranh luận nảy sinh. Trình độ, hiểu biết, tính cách của mỗi trò từ đó được bộc lộ khá rõ nét. Sự đối thoại từ sự tiếp nhận của từng cá thể góp phần điều chỉnh hành vi, nhận thức của người khác. Sự hình thành tri thức và nhân cách bắt đầu từ đó. Đây chính là tiền đề cho việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Sử dụng câu hỏi gợi mở và tình huống nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn chương đã tác động đến học sinh, tạo ra được tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, đồng thời kích thích được cảm xúc thẩm mỹ ở các em. Học sinh phải có sự dấn thân, phải có sự vui vẻ nhập cuộc để đối thoại cùng tác phẩm, từ đó mà tìm ra chân lí. Ví dụ: Đọc đến đoạn cuối tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao, một vấn đề đặt ra: Vì sao Nam Cao để cho Chí Phèo giết chết bá Kiến, tức là Chí đã giết đúng kẻ thù của mình, nhưng Chí Phèo lại tự kết liễu đời mình bằng cái chết quằn quại đau đớn? Qua kết cục đó, nhà văn muốn nói lên điều gì? Những câu hỏi này hàm chứa những điều học sinh đã biết về mâu thuẫn giữa Chí Phèo và bá Kiến, về những tội lỗi mà bá Kiến đã gây ra cho Chí, biến Chí thành một tên lưu manh. Việc Chí Phèo giết bá Kiến là đúng. Nhưng đồng thời câu hỏi còn đưa học sinh đến một vấn đề mới cần suy luận, lí giải, trao đổi. Vì sao Chí Phèo lại phải chết? Cái chết của Chí Phèo có sức tố cáo mạnh mẽ cái xã hội cũ đã không thể cho người dân lương thiện được sống yên ổn. Một bá Kiến chết nhưng sẽ còn nhiều bá Kiến khác tiếp tục bóc lột. Chí Phèo chết mới chấm dứt cuộc đời nhục nhã để hi vọng cuộc đời mới may ra tốt lành hơn ở kiếp sau. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rõ về mình. Chí không muốn tiếp tục cuộc sống của một con quỷ dữ. Chí muốn trở thành một con người nhưng Chí không thể trở thành người được. Chí chỉ còn cách hũy diệt chính mình. Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo ở chỗ đó. Đó cũng chính là điều tác giả muốn nói cùng độc giả. Có thể nói những câu hỏi gợi mở và những tình huống nêu vấn đề sẽ có tác dụng lôi cuốn học sinh vào quá trình tư duy, đối thoại cùng tác phẩm. Trong quá trình phân tích tác phẩm, giáo viên thường sử dụng phương pháp gợi mở- một biện pháp, một cách thức giúp học sinh có phương pháp tự tìm tòi, học tập, nghiên cứu. Phương pháp này được thực hiện chủ yếu bằng đàm thoại. Với con đường đàm thoại, giờ học văn có được không khí tâm tình, trao đổi thân mật về những vấn đề mà tác giả nêu ra trong tác phẩm. Mối liên hệ giữa nhà văn, giáo viên, học sinh được hình thành ngay trong lớp học. Qua đàm thoại, giáo viên nắm bắt kịp thời những tín hiệu phản hồi, những phản ứng của học sinh để có những điều chỉnh, bổ sung. Tính cách, phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phong cách của người học sinh được bộc lộ rõ nét ngay trong quá trình đàm thoại. Năng lực độc lập làm việc, óc tìm tòi suy nghĩ, cách thức lập luận và cả thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách tích cực. Giờ học trở nên sinh động hơn. Học sinh được trực tiếp bày tỏ ý kiến, suy nghĩ của mình cho tập thể cùng nghe. Tập thể cũng có ý kiến bổ sung, phản bác, đồng tình từ đó tạo một không khí trao đổi, tranh luận hào hứng nếu giáo viên biết cách tổ chức, hướng dẫn học sinh đối thoại cùng nhau. Ví dụ: Sau khi đặt câu hỏi cho học sinh phát hiện các chi tiết liên quan đến nhân vật Mị Châu trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trong Thủy, ở câu hỏi kiểu phát hiện này, giáo viên chú ý gọi các em có sức học trung bình và yếu để cho các em có cơ hội được nói. Dần dần, các em sẽ có thói quen và tự tin trình bày điều hiều biết của mình trước tập thể. Khi điểm đến chi tiết, Mị Châu lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần, giáo viên đặt vấn đề: Việc Mị Châu lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần nghĩa là nàng chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ đối với đất nước. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng Mị Châu làm như vậy là hợp lẽ tự nhiên, hợp với đạo lí vợ chồng, chúng ta cần thông cảm. Còn ý kiến của em như thế nào? Câu hỏi này đưa các em đến những suy nghĩ, những nhận thức trái chiều nhau để đối thoại, tranh luận tìm ra chân lí. Sẽ có em theo ý kiến thứ nhất, sẽ có em theo ý kiến thứ hai. Sau khi nghe các em dùng lí lẽ, lập luận để bảo vệ ý kiến của mình, giáo viên sẽ đưa ra định hướng can thiệp. Hết tình huống có vấn đề này, giáo viên tiếp tục đưa ra những câu hỏi gợi mở, những tình huống có vấn đề khác. Chẳng hạn như: Em có nhận xét gì về hành động rắc lông ngỗng trên đường chạy nạn của nhân vật Mị Châu? Mị Châu bị thần Rùa vàng kết tội là giặc, lại bị vua cha chém đầu nhưng sau đó máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch. Hư cấu như vậy, người xưa muốn bày tỏ thái độ gì đối với nhân vật Mị Châu? Nàng Mị Châu đáng thương hay đáng trách? Qua hình tượng nhân vật Mị Châu, tác giả dân gian muốn nhắn nhũ với chúng ta điều gì? Tôi tin chắc rằng, với hệ thống câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề như vậy, học sinh sẽ mạnh dạng bày tỏ nhận thức, quan điểm của mình, tạo cho các em cở hội được nói, được trình bày, được tranh luận trước tập thể. Giờ học như vậy sẽ đem lại hứng thú, niềm đam mê và cả bầu không khí dân chủ cho các em. 3. Bình văn thơ- một sự đối thoại ngầm trong giờ học Với quan điểm đổi mới, giờ học tác phẩm văn chương với mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm chủ yếu là những hoạt động của học sinh. Việc giảng bình bị xem nhẹ, lu mờ. Tuy nhiên, giảng bình là một phương pháp có tính đặc thù, có vai trò rất lớn trong việc cảm thụ và truyền thụ văn thơ. Người giáo viên thông qua sự hiểu biết và rung cảm về bài thơ, bài văn có nhiệm vụ làm cho học sinh cũng rung cảm và hiểu biết bài văn một cách đúng đắn, sâu sắc. Cái tài của người bình tác phẩm trong quá trình tiếp nhận văn học là chon đúng và trúng những cái hay trong sáng tạo nghệ thuật. Giờ giảng văn có giảng bình sẽ nâng chất văn, hồn văn trong giáo viên và học sinh, khiến các em rung động trước cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương. Giảng bình sẽ làm bộc lộ cái độc đáo, mới lạ đầy cảm xúc sáng tạo thẩm mỹ của người nghệ sĩ gởi gấm trong hình tượng văn học. Lời bình của giáo viên mang xúc cảm, sự thưởng thức, đánh giá riêng. Người nghe – học sinh say mê tự mình bộc lộ những suy nghĩ, những cảm xúc của mình trong bầu không khí văn chương, sinh động của việc hưởng thụ thẩm mỹ. Như vậy, bình văn thơ cũng tạo ra một sự đối thoại trong giờ học - một sự đối thoại ngầm trong tư duy, trong nhận thức của học sinh. Giảng bình hay làm cho học sinh yêu thích hơn với Văn, đồng thời là cơ sở cho sự cảm thụ, sáng tạo phát triển. 4. Giao việc cho học sinh Giao việc cho học sinh là một biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Đây là cách thức để nâng cao khả năng hợp tác giữa giáo viên và học sinh cũng như giữa học sinh với nhau. Tùy thuộc vào mục đích yêu cầu của vấn đề mà giáo viên có thể giao việc cho từng em, hoặc nhóm hai, ba em hoặc cả tổ. Với cách tổ chức này, giáo viên hướng dẫn học sinh hợp tác với nhau để cùng giải quyết một nhiệm vụ học tập. Qua đó, học sinh sẽ tự chiếm lĩnh tri thức, hiểu thấu đáo vấn đề và phát triển khả năng tư duy sáng tạo. Giao việc cho học sinh, cho nhóm học sinh có ý nghĩa lớn về nhiều mặt. Nó góp phần rèn luyện khả năng giao tiếp cá nhân như nghe, nói, tranh luận, rèn luyện khả năng hợp tác, tương hổ và giúp học sinh tự tin hơn trong học tập. Bên cạnh đó, nó còn có vai trò kích thích khả năng sáng tạo, tư duy độc lập và trau dồi kĩ năng trình bày trước đám đông. Có rất nhiều cách giao việc cho học sinh, tùy thuộc vào mục tiêu bài học và thời lượng cụ thể mà giáo viên sẽ có cách phân chia hợp lí. Ví dụ: Để tìm hiểu về tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn một cách sinh động, giáo viên có thể giao cho nhóm 1 ( tương ứng với tổ của lớp) về nhà tìm hiểu và thuyết trình cuộc đời, sự nghiệp và phong cách của nhà văn Lỗ Tấn. Chuẩn bị trên phần mềm powerpoint có sử dụng tranh ảnh bổ trợ. Nhóm 2 tóm tắt tác phẩm. Nhóm 3 ý nghĩa nhan đề “Thuốc” Hay dạy xong bài Viết tiểu sử tóm tắt, để chuẩn bị cho bài Luyện tập Viết tiểu sử tóm tắt phía sau, giáo viên yêu cầu mỗi tổ chuẩn bị một bài tiểu sử tóm tắt về một danh nhân. Bài tóm tắt chuẩn bị trên powerpoint, thời gian cho thuyết trình của mỗi bài là từ 5 đến 10 phút. Bài thuyết trình của các em phải được gởi vào email giáo viên trước một ngày để trình duyệt, sửa chữa. Qua thực tế dạy học, tôi thấy có em tìm hiểu, tóm tắt thuyết trình về Giáo sư Ngô Bảo Châu, nhà cách mạng – nghệ sĩ Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu, về một cầu thủ bóng đá nổi tiếng mà các em yêu thích như Mecxi, Ronaldo Bài thuyết trình tiểu sử tóm tắt về một nhân vật lịch sử, một danh nhân được các em chuẩn bị rất công phu, kĩ lưỡng và thuyết trình trên lớp cũng rất hào hứng, sôi nổi tạo được sự hứng thú, say mê của những học sinh khác. Tập thể lớp chăm chú theo dõi các em trình bày. Sau mỗi bài thuyết trình, giáo viên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá những điều được cũng như hạn chế để rút kinh nghiệm cho các lần sau. Cứ như thế, tiết học diễn ra rất thoải mái và các em trao đổi, nhận xét, đánh giá rất chân thành. Tạo được thói quen này, các em sẽ dần dần tự tin trong khâu trình bày, tranh luận, trao đổi, góp ý. Rèn được kĩ năng diễn đạt, lập luận trước đám đông. Kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo trong suy nghĩ. Tạo được mối quan hệ gắn bó, gần gũi giữa các em trong khi cùng chung giải quyết một nhiệm vụ học tập. C. PHẦN KẾT LUẬN Như trên đã trình bày, đối thoại, tranh luận có rất nhiều hình thức và có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Làm thế nào để các em được nói ra những suy nghĩ, lập luận, cảm xúc riêng, được tranh luận, góp ý, nhận xét để tìm kiếm tri thức, đem lại hứng thú cho các em trong giờ học Ngữ văn, đặc biệt là làm sao để các em yếu, nhút nhát phải “mở miệng”, để dần dần lấy lại tự tin trong học tập và trong cuộc sống là điều mà tôi luôn trăn trở. Căn cứ vào bản chất của đối thoại, vào từng đặc điểm loại thể của tác phẩm, giáo viên sẽ tổ chức các hình thức hoạt động đối thoại để giờ học tác phẩm văn chương trở nên hiệu quả hơn. Dạy học theo xu hướng lấy học sinh làm trung tâm và nâng cao khả năng đối thoại, giúp cho các em tự tin, chủ động sáng tạo trong tiếp nhận tri thức, gắn kết trong tình cảm, có kĩ năng lập luận, diễn đạt trước đám đông là nhu cầu cấp thiết của thời đại. Vì vậy giáo viên phải là người hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận với kiến thức, tiếp cận với cái mới một cách khoa học, hợp lý và có hiệu quả nhất. Giáo viên phải là người thật sự am hiểu và có cách lí giải, cắt nghĩa, cảm thụ một cách tinh tường về tác phẩm mình dạy. Chính từ sự cảm thụ sâu sắc đó, giáo viên có thể chủ động “chèo lái” tiết dạy sao cho phù hợp với trình độ và hứng thú của học sinh. Tôi nhận thấy rằng, thầy cô giáo cần phải có ý thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề; luôn tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học, kết hợp nhiều phương pháp khác nhau phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong từng lớp để các em chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng nhất; Quan trọng là học sinh phải được giáo viên trang bị phương pháp học như thế nào là hiệu quả và khả năng tư duy, lập luận, tranh luận được nâng cao. Làm được tất cả các điều trên, thiết nghĩ, cảm xúc, hứng thú và sự yêu thích đối với bộ môn Ngữ văn sẽ quay về trong tình cảm của các em. . Vinh Xuân, ngày 26 tháng 3 năm 2013 Người thực hiện TRẦN NGỌC MƯỜI TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Viết Chữ, Đối thoại và định hướng cảm thụ văn chương trong dạy học tác phẩm văn học, NXB Hà Nội 2008. Phan Thị Tuyết Nhung, Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng bộ môn qua các giờ dạy Ngữ Văn ở trường THPT, Chuyên đề lưu hành nội bộ 2012. Phan Thị Tuyết Nhung, Cách làm bài văn nghị luận xã hội ở trường THPT, Chuyên đề lưu hành nội bộ 2013. Phan Trọng Luận, Phương Pháp dạy tác phẩm văn chương, NXB Giáo dục 2009.PHẦN ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG XÉT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CỦA TRƯỜNG (Chủ tịch HĐ xếp loại, ký và đóng dấu) Xếp loại Vinh Xuân, ngày..tháng.năm 2013 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG PHẦN ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG XÉT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỞ GD-ĐT THỪA THIÊN HUẾ
File đính kèm:
skkn_ren_luyen_ki_nang_doi_thoai_cho_hoc_sinh_trong_gio_ngu.docx

