SKKN Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT
Trước cải cách giáo dục, Làm văn được tách thành một phân môn và được soạn thành sách giáo khoa (SGK) riêng. Quan điểm tích hợp gần đây đã dẫn tới sự ra đời của SGK Ngữ văn với ba bộ phận: Văn học - Làm văn - tiếng Việt, dựa trên sự thống nhất về mục tiêu hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Việt cho học sinh. Làm Văn là môn thực hành tổng hợp. Năng lực mà học sinh có được ở phần Văn học (đọc hiểu và tiếp nhận văn bản), Tiếng Việt (năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt) tạo điều kiện trực tiếp để đạt tới mục tiêu quan trọng nhất của làm văn: tạo lập văn bản (nói và viết). Giáo dục phổ thông coi trọng trình độ viết văn của học sinh, bởi với tư cách là "đầu ra", kết quả làm văn của học sinh phản ánh kết quả học Tiếng Việt và Văn học.
Trong nhà trường phổ thông, văn nghị luận được đánh giá là trọng tâm của chương trình dạy học Ngữ văn, bởi lẽ, văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những gì mình đề xuất. Bản thân văn nghị luận có liên quan trực tiếp tới quá trình các em học sinh tập vận dụng tổng hợp các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào quá trình làm văn, rèn luyện kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc phát triển tư duy khoa học, tư duy lí luận. Những đề bài nghị luận đặt ra những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải huy động những hiểu biết lí luận và thực tiễn để giải quyết nhằm xây dựng một phương pháp, tư tưởng khoa học để có nhận thức và thái độ đúng trước những vấn đề bàn luận cũng tức là giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để tiến tới những hành động đúng đắn, tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện tại và tương lai. Để học sinh làm được các bài văn nghị luận hay, các em phải hiểu được các thao tác lập luận có trong văn nghị luận.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT

ây xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu, đuốc xà nu). Cho nên, xét về vai trò, ý nghĩa, rừng xà nu đúng như ý kiến trên, trước hết giữ vai trò là phông, nền, có tác dụng tạo dựng không gian nghệ thuật cho tác phẩm. * Tuy nhiên, nếu chỉ giữ vai trò là phông, nền thì - Những chi tiết miêu tả: + Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương + Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. + Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi raNăm, mười hôm thì cây chết. + Cạnh một cây mới ngã gục, đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. + Có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. + Cứ thế, hai, ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng - Cách miêu tả: + Tả cây xà nu, Nguyễn Trung Thành dùng toàn những từ để nói về con người: bị thương, vết thương, máu + Và ngược lại, khi tả người, lại luôn so sánh, liên tưởng đến cây (tả cây trong sự chiếu ứng với người) Chẳng hạn, tả cụ Mết, tác giả viết: Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn hay tả cảnh Tnú bị kẻ thù dùng dao chém vào lưng: Ở chỗ vết thương, máu ứa ra từng giọt lớn, đến chiều thì đen, đặc quyện lại như nhựa xà nu. có dụng ý gì nếu không phải để xây dựng xà nu trở thành một biểu tượng về số phận và phẩm chất của con người. Mặt khác, cách miêu tả như vậy (tập trung ở trang đầu và trang cuối) còn phản ánh kết cấu nghệ thuật của tác phẩm: kết cấu đầu cuối tương ứng (vòng tròn) phải chăng là để tô đậm sức sống mãnh liệt của xà nu, cũng là sức sống mãnh liệt của đất nước và con người Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ (theo lời tác giả thì chính là sức sống mãnh liệt của xà nu đã gợi ý tưởng sáng tác cho tác phẩm) Thêm nữa, nếu xà nu chỉ giữ vai trò là phông, nền, các hình tượng Tnú, cụ Mết, Dít, Heng mới là quan trọng thì nhan đề Rừng xà nu thiết nghĩ cũng phải thay đổi. Tóm lại, với những căn cứ từ tác phẩm (và ngoài tác phẩm – ý tưởng sáng tác), có thể khẳng định ý kiến Rừng xà nu chỉ giữ vai trò là phông, nền, tạo khung nghệ thuật cho tác phẩm là một nhận thức phiến diện, không đầy đủ về hình tượng nghệ thuật đẹp nhất, quan trọng và giàu ý nghĩa nhất của tác phẩm. d. Kết quả khi thực hiện giải pháp: + Sản phẩm được tạo ra từ giải pháp (Tên, khối lượng, số lượng, thông số của sản phẩm): Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Số tt Họ và tên Nơi công tác Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ 1 Lớp Văn K23, Pháp K23, Toán K23 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 - Bài: thao tác lập luận bác bỏ - Bài: luyện tập thao tác lập luận bác bỏ - Các giờ trả bài 2 Lớp Văn K28 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 - Bài: thao tác lập luận bác bỏ - Bài: luyện tập thao tác lập luận bác bỏ - Các giờ trả bài - Chuyên đề Làm văn 3 Lớp Anh K26, Tin K26 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11, 12 - Bài: thao tác lập luận bác bỏ - Bài: luyện tập thao tác lập luận bác bỏ - Các giờ trả bài 4 Lớp Anh K29, Lý k29 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11 - Bài: thao tác lập luận bác bỏ - Bài: luyện tập thao tác lập luận bác bỏ - Các giờ trả bài 5 -Đội tuyển HSGQG năm 2014 THPT Chuyên Bắc Giang - Lớp 11,12 - Trả bài bài viết số 5 6 -Đội tuyển HSGQG năm 2015 -Đội tuyển HSG thi Duyên hải, Hùng vương 2015 THPT Chuyên Bắc Giang -Lớp 11,12 - Lớp 11 - Trả bài bài viết số 5 - HS học chuyên đề Làm văn 7 Đội tuyển HSGQG năm 2016 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 Trả bài bài viết số 4 8 Đội tuyển HSGQG năm 2017 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 Trả bài bài viết số 3 9 Đội tuyển HSGQG năm 2018 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 - Trả bài bài viết số 3 -HS học chuyên đề Làm văn 10 -Đội tuyển HSGQG năm 2019 - Đội tuyển HSG thi Duyên hải, Hùng vương 2019 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 - Lớp 10 - Trả bài bài viết số 3 - HS học chuyên đề Làm văn 11 -Đội tuyển HSGQG năm 2020 - Đội tuyển HSG thi Duyên hải, Hùng vương 2020 THPT Chuyên Bắc Giang - Lớp 11,12 - Lớp 11 - Trả bài bài viết số 4 - HS học chuyên đề Làm văn 12 - Đội tuyển HSGQG năm 2021 - Đội tuyển HSG cấp tỉnh năm 2021 THPT Chuyên Bắc Giang Lớp 11,12 Lớp 12 - Trả bài bài viết số 3 - HS học chuyên đề Làm văn - Trả bài bài viết số 2 + Các bảng số liệu, biểu đồ so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp: So sánh hứng thú, sự tích cực của HS trước và sau khi áp dụng giải pháp (kết quả đo lường bằng việc phỏng vấn HS của 5 lớp: Văn K23, Pháp K23, Anh K26, Văn K28, Anh K29 và HS đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh, khu vực, quốc gia các năm từ 2014-2021 với tổng số 250 HS): Thái độ, hứng thú và sự tích cực với nội dung bài học Trước khi áp dụng giải pháp Sau khi áp dụng giải pháp Rất hứng thú 12% 20% Có hứng thú một chút 35% 60% Không hứng thú 38% 20% Rất không hứng thú 15% 0% Có thể thấy, các giải pháp đưa ra đã có hiệu quả rất tốt trong việc làm thay đổi hứng thú, sự tích cực, chủ động của HS trong giờ học: Thao tác lập luận bác bỏ; Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ; các giờ trả bài kiểm tra, các giờ dạy chuyên đề Làm văn. 1.1 Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiếna. Đối tượng áp dụng của sáng kiến: Giáo viên và học sinh bậc trung học phổ thông. b. Phạm vi áp dụng của sáng kiến: trong dạy học và kiểm tra các kiểu bài văn nghị luận. 1.2 Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến (Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến lợi ích có thể thu được do áp dụng giải pháp trong đơn kể cả áp dụng thử tại cơ sở): 7.3.1. Hiệu quả kinh tế Khi thực hiện áp dụng sáng kiến trên đây vào thực tiễn dạy học Ngữ văn THPT, có thể nhìn thấy ngay một số lợi ích về mặt kinh tế mà nó mang lại. Đó chính là những giải pháp kỹ năng dùng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận. Ngoài hiệu quả tác động tích cực đến hứng thú học tập môn Ngữ văn của HS đặc biệt là Làm văn, làm thay đổi thái độ học tập với kiểu bài sử dụng thao tác lập luận của HS, khi các em nắm chắc kiến thức về kiểu bài, nắm chắc những yêu cầu cụ thể về kiến thức và nội dung đối với kiểu bài, các em được sửa những lỗi sai của mình Từ đó giúp học sinh tự tin, vững vàng trước bất kì một vấn đề văn nghị luận nào mà các em gặp phải trong học tập cũng như trong các kì thi, trong cuộc sống. Hơn nữa còn tác động trực tiếp đến nhận thức, ý thức và năng lực của GV, góp phần quan trọng vào việc đổi mới giáo dục hiện nay. Thực hiện sáng kiến này chính là một điều kiện, một cơ hội để GV tự tìm hiểu tài liệu, cập nhật thông tin tri thức mới, củng cố kiến thức chuyên môn từ đó nâng cao năng lực, phẩm chất cá nhân. Với những yêu cầu cao trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, người GV phải tự ý thức không ngừng học hỏi, nghiên cứu, trau dồi nâng cao trình độ và bản lĩnh. Sự cập nhật tri thức phải luôn đi đôi với nâng cao trình độ sư phạm. Khi đã quán triệt tinh thần coi HS là trung tâm hoạt động học tập, khi đã trao quyền chủ động cho HS, tất yếu GV sẽ phải đối diện với sự đa dạng, phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn, trong bày tỏ quan điểm ý kiến của các em. Do vậy, GV buộc phải tự nâng cao trình độ năng lực của mình. Việc GV không ngừng tự trau dồi nâng cao năng lực, chuyên môn nghiệp vụ ở một khía cạnh nào đó cũng có thể xem là tiết kiệm kinh phí cho công tác tập huấn, đào tạo lại. Với học sinh, tiết kiệm thời gian tìm hiểu bài, có một phương pháp khoa học, hiệu quả đối với từng dạng bài, từng môn họcĐó chính là mang lại hiệu quả kinh tế khá rõ cho xã hội. 7.3.2. Hiệu quả xã hội Những giải pháp mà chúng tôi đã thực hiện trên đây trong bảy năm học liên tiếp tại trường THPT Chuyên Bắc Giang rất có hiệu quả trong việc kích thích hứng thú học tập của HS, giúp HS không còn tâm lí “lúng túng, sợ sệt” khi bắt gặp dạng đề sử dụng thao tác lập luận bác bỏ. Học sinh tự tin và có phương pháp khoa học khi tham gia tranh luận trong các hoạt động nhóm của tất cả các môn học hoặc tranh luận về các vấn đề trong cuộc sống. Nhờ có kiến thức và kỹ năng trong việc sử dụng thao tác lập luận bác bỏ nên các em đã biết biến những cuộc tranh luận thành những cuộc trao đổi thú vị và có tinh thần xây dựng, bày tỏ được quan điểm cá nhânđạt hiệu quả cao. Kết quả thử nghiệm cho thấy, hứng thú học tập của HS đã có sự chuyển biến tích cực, có sự thay đổi đáng kể sau khi được giáo viên đưa ra kĩ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận và cách vận dụng trong giao tiếp, đời sống thực tế. Chính vì vậy mà công tác giảng dạy và giáo dục học sinh luôn đạt chất lượng tốt, các lớp chuyên, nâng cao, cơ bản do tôi phụ trách hàng năm đạt 100% xếp loại học lực khá, giỏi trong đó loại giỏi chiếm từ 50% trở lên; học sinh đỗ tốt nghiệp 100% trong đó loại giỏi chiếm trên 50%; tỷ lệ học sinh đỗ đại học nguyện vọng một đều trên 90%, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể, năm học 2016 - 2017: có 01 học sinh là thủ khoa tốt nghiệp toàn tỉnh: em Nguyễn Thanh Vân (12 Pháp); năm học 2018 – 2019, 01 học sinh là thủ khoa khối D1 toàn tỉnh: em Nguyễn Thị Trang (12 Anh) Trong năm năm tham gia và dạy chính thức đội tuyển Quốc gia môn Ngữ Văn của tỉnh thì số lượng và chất lượng giải HSG quốc gia ngày càng được tăng cao: So với giai đoạn trước thì số giải tăng lên đáng kể, trong đó số giải nhất, giải Nhì, giải Ba tăng lên, HSG tỉnh duy trì đều đặn. Kết quả cụ thể như sau: + Kết quả thi học sinh giỏi Quốc gia môn Ngữ Văn: 49 giải (01 Nhất, 07 Nhì, 29 Ba, 012 Khuyến Khích). + Bồi dưỡng học sinh thi HSG các tỉnh phía bắc (trại hè Hùng Vương) và Duyên hải Đồng bằng Bắc Bộ: 20 huy chương (04 Vàng, 06 Bạc, 10 Đồng) + Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi tỉnh: 43 giải (05 Nhất, 10 Nhì, 13 Ba, 15 Khuyến Khích). Công tác bồi dưỡng HSG luôn đứng đầu khối các trường THPT trong toàn tỉnh và là một trong những trường THPT Chuyên trên cả nước có kết quả giải HSG Quốc gia ổn định hàng năm. - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có): * Về lí luận + Hệ thống hóa những tiền đề về thao tác lập luận bác bỏ. + Góp thêm cơ sở khoa học cho việc đổi mới phương pháp dạy và học Làm văn. * Về thực tiễn: Đề xuất các cách thức rèn luyện kỹ năng lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT thông qua một hệ thống bài tập nhằm giúp giáo viên và học sinh thuận lợi hơn trong quá trình dạy và học văn nghị luận. * Với giáo viên: + Nắm được hệ thống kiến thức, kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ để tiến hành giảng dạy và bồi dưỡng học sinh theo quy định của chương trình ở bậc THPT. + Sáng kiến giúp giáo viên Ngữ văn được tiếp cận với nhiều bài viết, nhiều quan điểm, ý kiến của học sinh cùng nhiều gợi ý đối với từng dạng bài văn nghị luận.. từ đó tích cực ứng dụng vào công tác giảng dạy, nâng cao hiệu quả dạy học. Phát huy được các năng lực của từng học sinh. + Giáo viên kịp thời phát hiện những lỗi sai của HS để từ đó có biện pháp điều chỉnh phương pháp dạy và học cho phù hợp. GV có khả năng và điều kiện phát triển các phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động sáng tạo của người học. * Với học sinh: + Học sinh nắm chắc và rèn luyện các kỹ năng, cách tổ chức thực hiện và giải quyết những vấn đề trong thực tế bài học, thực tế từng dạng đề, thực tế cuộc sống một cách linh hoạt và khoa học. + Học sinh có khả năng nhanh chóng thích ứng với công việc, hoàn thành các công việc được giao với hiệu quả cao ngay sau khi học xong. + Nội dung của sáng kiến không chỉ rèn cho các em nắm chắc kiến thức, kỹ năng nhận diện đề, kỹ năng làm bài tốt mà còn rèn cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức khi tranh biện các hiện tượng thực tiễn gắn với đời sống, qua đó đã hình thành và phát triển các năng lực chung, năng lực chuyên biệt với các em học sinh. Học sinh có khả năng suy luận diễn dịch từ các luận điểm lý thuyết; suy luận quy nạp từ các kết quả quan sát; phân tích và tổng hợp; phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế. + Rèn luyện cho học sinh kỹ năng lập luận bác bỏ thông qua việc tạo lập đoạn văn bản ở cả hai dạng nói và viết. + Dạy học theo sáng kiến khuyến khích được tinh thần tự học của học sinh, học sinh có hứng thú trong học tập, tự giác và hoàn thiện tốt nhiệm vụ được giao. Chọn sáng kiến Rèn luyện kỹ năng sử dụng thao tác lập luận bác bỏ trong văn nghị luận cho học sinh THPT, chúng tôi mong muốn giúp học sinh bước đầu hình thành kỹ năng và biết cách vận dụng vào trong những bài viết của mình, đem đến cho bài viết những màu sắc mới, trên cơ sở đó phát triển hơn năng lực nhận biết, năng lực tư duy, năng lực tạo lập văn bản, năng lực giao tiếp. Đó là những hành trang cần thiết giúp các em vững bước trên con đường đời. * Cam kết: Chúng tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan, đơn vị (Chữ ký dấu) Tác giả sáng kiến (Chữ ký và họ tên) Đào Thị Hoài Bắc Trần Thị Liên PHỤ LỤC I. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Stt Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 GV Giáo viên 2 THPT Trung học phổ thông 3 HS Học sinh 4 SGK Sách giáo khoa 5 SGV Sách giáo viên II. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê A (chủ biên), Phạm Thị Huệ, Trần Văn Toàn, Nguyễn Thị Hồng Vân, Trần Văn Vụ,(2009), Thực hành Làm văn lớp 11, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Lê A, Đình Cao (1992), Làm văn tập 1, 2, NXB Giáo dục. 3. Lê A (chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB Giáo dục. 4. Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Trọng Hoàn (2006), Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, NXB Hà Nội. 5. Nguyễn Đức Dân, (1998), Lôgic và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. 6. Triệu Truyền Đống, (1999), Phương pháp biện luận, NXB Giáo dục, Hà Nội. 7. Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Sinh Huy, Hà Thị Đức, (1991), Giáo dục học đại cương 2, NXB Giáo dục, Hà Nội. 8. Lê Văn Hồng (chủ biên), (2007), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, NXB ĐHQG Hà Nội. 9. Phan Trọng Luận (chủ biên), (2006), Thiết kế Ngữ văn lớp 11, NXB Giáo dục, Hà Nội. 10. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, Hà Nội. 11. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), (2006), Sách giáo viên Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, Hà Nội. 12. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), (2006), Sách Bài tập Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, Hà Nội. 13. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. 14. Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Thị Ban, Trần Hữu Phòng (2000), Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh THPT, NXB ĐHQG Hà Nội. 15. Trần Đăng Suyền (1984), Từ điển văn học (tập 2), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. Trần Đình Sử (2001), Bàn về vấn đề dạy làm văn trong chương trình SGK ở THPT, Tạp trí ngôn ngữ. 17. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), Nguyễn Thanh Huyền (2001), Dạy và học nghị luận xã hội, NXB Giáo dục, Hà Nội. 18. Lê Thánh Tông, Nguyễn Lệ Thu, Phương pháp làm bài văn nghị luận, NXB Đà Nẵng.
File đính kèm:
skkn_ren_luyen_ky_nang_su_dung_thao_tac_lap_luan_bac_bo_tron.docx
Bản đăng kí SKKN, Bắc- Liên - 2020-2021.doc
BIA SÁNG KIẾN 2021.docx
MẪU 2.docx
mẫu 4 - đơn công nhận sáng kiến Bắc -Liên.docx