SKKN Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh Trường THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết nói và nghe” (Chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

Như chúng ta đã biết, mục tiêu tổng quát giáo dục đã được xác định phù hợp với xu thế phát triển của thời đại bao gồm cả thái độ, năng lực, kỹ năng, kiến thức, cách học, cách làm, cách sống, nhằm đào tạo con người tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết thực tiễn. Nói cách khác, mục tiêu giáo dục nhằm đào tạo con người toàn diện. Vì thế, quá trình dạy học có hứng thú, tích cực hay không, có phát huy trí thông minh cho học sinh được hay không tất cả phụ thuộc vào khả năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt của học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định mục tiêu dạy học của môn Ngữ văn: "Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe".

Như vậy, năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp là hai trong số những năng lực cơ bản cần phải hình thành cho học sinh trong quá trình dạy học môn Ngữ văn. Tiết Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh . Bởi tiết học đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng vốn ngôn ngữ của mình để trình bày, trao đổi, chia sẻ với nhau về một vấn đề nhất dịnh. Hiểu vấn đề cần trình bày là điều quan trọng, nhưng trình bày vấn đề như thế nào, thái độ ra sao cũng là điều cần lưu tâm.

Để hình thành năng lực cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp dạy học phù hợp, tuân thủ định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018: phát huy tính tích cực của người học; dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hóa hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học. Việc tổ chức hoạt động nói nghe cần phải linh hoạt để khuyến khích học sinh chủ động, tự tin hơn khi trình bày, trao đổi thông tin. Chính vì thế cần phải tăng cường các hoạt động tương tác khi nói, nghe và tạo cơ hội cho học sinh được trình bày, trao đổi trong nhóm và trước lớp. Việc đổi mới phương pháp dạy học là điều hết sức cần thiết khi tiến hành thực hiện tiết Nói và nghe. Thế nhưng, khi thực hiện tiết học này, giáo viên thường áp dụng phương pháp thuyết trình sau đó nhận xét, bổ sung. Với cách thức tiến hành đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, không hứng thú và chưa có cơ hội để phát huy được năng lực của bản thân.

pdf 79 trang Trang Lê 05/06/2025 110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh Trường THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết nói và nghe” (Chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh Trường THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết nói và nghe” (Chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

SKKN Rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho học sinh Trường THPT Quỳ Hợp 3 qua tiết nói và nghe” (Chương trình Ngữ văn 10, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
hân 
thiện trong tiết Nói 
và nghe? 
Câu 3. Thầy /cô hãy 
đánh giá tính khả 
thi của giải pháp đa 
dạng hóa các 
phương pháp và 
phương tiện dạy 
học trong tiết Nói 
và nghe. 
15/16 
1/16 
0/16 
0/16 
38,7 Rất khả 
thi 
Câu 4. Thầy /cô hãy 
đánh giá tính khả 
thi của giải pháp 
xây dựng các tiêu 
chí kiểm tra, đánh 
giá năng lực nói và 
nghe của HS. 
16/16 
0/16 
0/16 
0/16 
4.0 Rất khả 
thi 
Bảng 2: Dành cho học sinh 
Giải pháp khảo sát Mức độ ___ 
X 
Mức 
Câu 1. Em hãy đánh 
giá tính khả thi của 
giải pháp nắm vững 
cấu trúc của các chủ 
đề, mục tiêu cụ thể 
của từng tiết Nói và 
nghe? 
Rất 
khả thi 
Khả 
thi 
Ít khả 
thi 
Không 
khả thi 
82/87 4/87 1/87 0/87 3.93 Rất khả 
thi 
Câu 2. Em hãy đánh 
giá tính khả thi của 
giải pháp xây dựng 
môi trường dạy học 
thân thiện trong tiết 
Nói và nghe? 
80/87 5/87 2/87 0/87 3.89 Rất khả 
thi 
Câu 3. Em hãy đánh 
giá tính khả thi của 
giải pháp đa dạng 
hóa các phương pháp 
và phương tiện dạy 
học trong tiết Nói và 
nghe. 
81/87 4/87 2/87 0/87 3.88 Rất khả 
thi 
68 
Câu 4. Em hãy đánh 
giá tính khả thi của 
giải pháp xây dựng 
các tiêu chí kiểm tra, 
đánh giá năng lực nói 
và nghe của HS 
79/87 4/87 4/87 0/87 3.89 Rất khả 
thi 
Với các mức thông số như trên, có thể rút ra kết luận rằng: các giải pháp đề xuất 
để phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp cho HS trong tiết Nói và 
nghe là rất khả thi khi đưa vào ứng dụng trong thực tế. 
Hình ảnh 9: Hình ảnh được chụp từ phiếu KS 
69 
II. PHIẾU KHẢO SÁT VỀ NĂNG LỰC NGÔN NGỮ VÀ NĂNG LỰC 
GIAO TIẾP CỦA HỌC SINH TRƢỜNG THPT QUỲ HỢP 3. 
Phiếu khảo sát dành cho học sinh 
Câu 1. Em đã bao giờ thực hiện một bài nói trƣớc đám đông chƣa? 
A. Chưa 
B. Rồi 
Câu 2. Em đã thực hiện bài nói trƣớc đám đông trong phạm vi nào?(với 
bạn trả lời có ở câu 1) 
 A. Trước hội nghị 
B. Trước đám đông 
C. Trước cả lớp 
Câu 3. Khi thực hiện bài nói trƣớc đám đông em thực hiện tốt không? 
A. Nói rất tốt 
B. Còn lúng túng, tâm lí 
Câu 4.Trong chƣơng trình Ngữ văn 10 có các tiết học Nói và nghe, em có 
hứng thú với các tiết học này không? 
A. Có 
B. Không 
Câu 5. Những lí do nào khiến em không thích tiết Nói và nghe trong 
chƣơng trình Ngữ văn 10 (dành cho bạn trả lời KHÔNG ở câu 4) 
A. Phải đứng trước đám đông để trình bày một vấn đề 
B. Phải tham góp ý kiến cho bài phát biểu của người khác 
C. Phương pháp dạy của giáo viên còn đơn điệu và nhàm chán 
D. Vấn đề đưa ra để nói và nghe không hấp dẫn 
Câu 6. Những lí do tạo cho e sự hứng thú khi học tiết Nói và nghe (dành 
cho bạn trả lời CÓ ở câu 4) 
A. Có cơ hội được nói, được thể hiện quan điểm của bản thân với mọi người 
B, Có cơ hội được lắng nghe lời nhận xét của mọi người về nội dung và cách 
mình trình bày một vấn đề 
C.Có khả năng để phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực 
hợp tác 
Câu 7. Nếu bây giờ cho em có cơ hội đƣợc nói về một chủ đề nào đó trƣớc 
đám đông thì em có sẵn sàng để nói không? 
A. Rất sẵn sàng 
70 
B. Không dám nói 
Câu 8. Sau khi lắng nghe ngƣời khác trình bày một vấn đề trƣớc đám 
đông, em có tham gia góp ý kiến không? 
A.Có tham gia góp ý kiến 
B. Không dám có ý kiến 
C. Không quan tâm đến vấn đề đang trình bày 
Câu 9. Em cảm thấy nhƣ thế nào nếu bài phát biểu của mình không đƣợc 
lắng nghe và phản hồi: 
A. Buồn, thất vọng 
B. Bình thường 
C. Không muốn phát biểu khi được giao nhiệm vụ nữa 
D. Tìm hiểu nguyên nhân vì sao mọi người không thích lắng nghe và phản 
hồi để tự điều chỉnh bản thân cho tốt hơn 
Câu 10. Đề xuất của em với giáo viên khi tiến hành dạy tiết Nói và nghe 
.............................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
..................................................................................................................................... 
Kết quả khảo sát: 
 A B C D Tổng 
(%) 
Câu 1 62 38 100 
Câu 2 0 6 94 100 
Câu 3 9 91 100 
Câu 4 21 79 100 
Câu 5 71 68 51 42 
Câu 6 46 37 79 
Câu 7 17 83 100 
Câu 8 18 60 22 100 
Đáp án 
% Câu 
hỏi 
71 
Câu 9 46 24 18 37 
Phiếu khảo sát dành cho giáo viên 
Câu 1. Tiết Nói và nghe chiếm thời lƣợng rất ít trong chƣơng trình Ngữ 
văn 10. Thầy/cô có chú trọng những tiết dạy này hay không? 
A. Có 
B. Bình thường 
C. Không 
Câu 2. Khi dạy tiết Nói và nghe, thầy/ cô thƣờng sử dụng những phƣơng 
pháp nào? 
A. Thuyết trình 
B. Phản biện 
C. Đóng vai 
D. Thảo luận nhóm 
E. Các phương pháp khác................................................................................. 
Câu 3. Thầy/ cô có chú trọng rèn luyện năng lực ngôn ngữ và năng lực 
giao tiếp cho học sinh khi dạy tiết Nói và nghe không? 
A. Có 
B. Không 
Câu 4. Khi cho học sinh trình bày một vấn đề trƣớc cả lớp trong tiết Nói 
và nghe, thầy/cô thấy khả năng diễn đạt của đa số học sinh đang ở mức độ 
nào? 
A. Nói lưu loát, tự tin 
B. Nói lúng túng, thiếu tự tin 
72 
III. KỊCH BẢN GIAO LƢU GIẢ ĐỊNH 
- MC: Kính thưa các vị khách quý, kính thưa các bạn độc giả yêu thích thơ 
văn. Thật vinh dự cho huyện Quỳ Hợp năm nay khi được hội nhà văn chọn làm địa 
điểm để tổ chức đêm thơ Rằm tháng giêng. Chủ đề của đêm thơ năm nay là Những 
bài thơ đi cùng năm tháng. và vị khách mời của buổi giao lưu đêm nay là nhà thơ 
với sức sáng tạo dồi dào, mãnh liệt nhất của phong trào Thơ mới 1930 -1945. Đó 
chính là nhà thơ Hàn Mặc Tử. Còn một vị khách mời đặc biệt nữa mà tôi muón 
giới thiệu chính là nhà phê bình Hoài Thanh - nhà phê bình xuất sắc nhát của 
phong trào Thơ mới. 
Bài thơ tiêu biểu đã đi cùng năm tháng mà chúng tôi muốn gửi tới các bạn là 
thi phẩm Mùa xuân chín. Xin mời quý khách mời và quý khán giả cùng thưởng 
thước bài thơ này qua giọng ngâm của nghệ sĩ Thúy Mùi (video). 
Và sau đây, xin mời quý vị và các bạn cùng nghe chia sẻ của chính tác giả 
Hàn Mặc Tử về bài thơ Mùa xuân chín 
- Nhà thơ Hàn Mặc Tử: 
 Kính thưa nhà phê bình Hoài Thanh, kính thưa độc giả 
 Tôi viết “Mùa xuân chín” khi đang bị bạo bệnh. nhưng chính lúc bệnh tật 
đang vắt kiệt sức khỏe của tôi thì tôi lại càng khao khát sống bởi cuộc đời còn biết 
bao điều đẹp đẽ đang chờ đón. Một trong những điều đẹp đẽ ấy là bức tranh mùa 
xuân đang ở độ căng tràn nhựa sống nhất. 
 Tôi đã gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó“Mùa xuân chín” 
. “Mùa xuân chín” mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một ko gian tràn đầy 
sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của 
quả cây lúc đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý 
nghĩa đó, tôi đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, 
viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn 
nhựa sống nhất. 
 Tôi mở đầu bài thơ với bức tranh tự nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, 
ngập tràn sắc xuân: 
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan 
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng 
Sột soạt gió trêu tà áo biếc 
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”. 
 Tự nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương 
khói mờ ảo, huyền bí. Hình ảnh “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói 
sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng 
của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. 
Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của 
“gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật 
73 
tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. 
Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân 
nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ 
ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy. 
 Từ điểm nhìn cận cảnh, tôi đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. 
Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” 
được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến ta hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp 
nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Cách 
nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp 
cỏ xuân. Bởi chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và 
kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”! 
Từ cảnh thu, tôi chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức 
tranh tâm cảnh. Hoà cùng với ko lú tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo 
nức trong lòng người: 
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi 
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy 
Có k theo chồng bỏ cuộc chơi” 
 Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những 
lời thầm thì nhỏ bé: 
“Thầm thì với người nào ngồi dưới trúc 
Nghe ra ý vị và thơ ngây” 
 “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “người nào”. 
Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Tuy nhiên, câu 
thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân 
chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” 
rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi 
cũng có điểm kết. Tôi thấy dâng một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu 
giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, tôi hoá thân trong 
một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình: 
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín 
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng 
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc 
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. 
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê 
thân yêu. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn 
thiên lý. Đó là một ko gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa 
tình. Và trong ko gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi 
nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình 
thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc 
74 
cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta 
cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. 
 Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Ko 
chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc 
đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. 
 Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” là sự 
kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại 
 Tôi đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ 
cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ 
về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao 
giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh 
tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. 
- MC: Cảm ơn những chia sẻ hết sức sâu sắc của nhà thơ. 
 Thưa nhà phê bình Hoài Thanh, ông có nhận xét gì về bài thơ Mùa 
xuân chín không ạ? 
- Nhà phê bình Hoài Thanh: Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy 
diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là tương tự đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy 
một tấm lòng khát khao yêu đời, khát khao sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa 
xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng 
thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, 
đau thương. 
- MC: Xin mời quý độc giả cùng đặt câu hỏi để giao lưu với nhà thơ và nhà 
phê bình. 
- Độc giả 1. Kính thưa nhà thơ Hàn Mặc Tử, nhà phê bình Hoài Thanh. Cháu 
đã từng đọc một số bài thơ viết về mùa xuân. Nhưng đến với Mùa xuân chín cháu 
không chỉ cảm nhận được một bức tranh xuân nơi đồng quê yên ả, thanh bình mà 
còn thấy được điệu tâm hồn đầy rung cảm, nhân văn của nhà thơ. Cháu muốn nhờ 
nhà phê bình Hoài Thanh chỉ ra cho chúng cháu cấu tứ và mạch cảm xúc của bài 
thơ? 
- Nhà phê bình Hoài Thanh: Cấu tứ của bài thơ là bức tranh xuân đang từ 
ngoại cảnh thoắt biến thành tâm cảnh. Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng 
tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái 
bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ ko đi theo 
một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách 
thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn. 
- Độc giả 2: Thưa nhà thơ Hàn Mặc Tử! Trong bài chia sẻ vầ thi phẩm, nhà 
thơ có nói “Mùa xuân chín” là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. 
Mong nhà thơ giải thích rõ hơn về đặc sắc nghệ thuật này: 
75 
- Nhà thơ Hàn Mặc Tử: Nét cổ điển của bài thơ là: 
 Thể thơ Đường luật thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 
4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những 
câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật 
Về tính hiện đại: hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết 
hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, kết hợp 
từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, 
nghe ra ý vị và thơ ngây 
- Độc giả 3: Nhà thơ muốn gửi gắm tới người đọc thông điệp gì qua bài thơ? 
- Nhà thơ Nhà Mặc Tử: Các bạn trẻ hãy mở khát khao giao cảm với cuộc 
đời, trân trọng cái đẹp và có ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của 
cuộc đời. 
 - Nhà phê bình Hoài Thanh: Niềm khao khát sống và ý thức nâng niu vẻ 
đẹp của cuộc sống luôn được nuôi dưỡng trong mỗi chúng ta, ngay cả khi cuộc 
sống của bạn có khó khăn, trắc trở thế nào. Qua bài thơ, ta hiểu vì sao thơ Hàn Mặc 
Tử lại chứa đựng một tình yêu đau đớn hướng về trần thế. 
- MC: Xin cảm ơn nhà thơ và nhà phê bình đã gửi tới độc giả những dòng 
chia sẻ xuất phát từ tình yêu với thơ ca và với cuộc đời. 
76 
IV.HÌNH ẢNH MINH CHỨNG VIỆC THỰC HIỆN CÁC TIẾT NÓI VÀ 
NGHE. 
Hình ảnh 9: HS tham gia thảo luận nhóm trong tiết học 
Hình ảnh 10: HS tham gia phản biện 
77 
Hình ảnh 11: HS nhập vai vào hướng dẫn viên du lịch 
Hình ảnh 12: HS tham gia giao lưu giả định 
78 
Hình ảnh 15: HS tham gia vào dự án văn hoá dệt thổ cẩm. 
79 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (ban hành kèm theo Thông 
tư số 32/2018/TTBGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). 
 2. Ngữ văn 10 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” (tập 1, 2). NXB 
Giáo dục Việt Nam.Bùi Mạnh Hùng (tổng chủ biên), Phan Huy Dũng (chủ biên), 
Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thị Diệu Linh, Đặng Lưu, 
 3. Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn trung học phổ thông. NXB Đại 
học Sư phạm Hà Văn Minh, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Nguyễn Thị Nương, Đỗ Hải 
Phong (2022). 
 4. Các chuyên đề, các bài viết trên tạp chí KHXH, tạp chí Dạy và học ngày 
nay

File đính kèm:

  • pdfskkn_ren_luyen_nang_luc_ngon_ngu_va_nang_luc_giao_tiep_cho_h.pdf