SKKN Rèn luyện tư duy đa chiều cho học sinh THPT qua dạy học đọc hiểu văn bản sau 1975 (Ngữ Văn 12) theo hướng phát triển năng lực

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) “Về đổi mới căn bản, toàn diện GD và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” những năm gần đây, trong các trường phổ thông đã tổ chức nhiều hoạt động đổi mới về PP dạy học và GD. Đổi mới căn bản từ dạy học trang bị kiến thức sang dạy học phát triển NL để phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu thế hội nhập. Khi dạy học theo hướng phát triển NL, HS không còn đơn thuần đóng vai trò là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học tập cho HS trên con đường đi tìm tri thức. Đó cũng chính là mục tiêu của GD phổ thông 2018 phát triển toàn diện NL và phẩm chất của người học để xây dựng hình tượng công dân toàn cầu: tích cực, chủ động, sáng tạo. Trong CT Ngữ văn THPT hiện nay, các TP sau 1975 chiếm một vị trí quan trọng, là thành tựu rực rỡ của một thời kì văn học dân tộc, mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo và tài năng của các nhà văn. Tuy nhiên, trên thực tế, việc dạy - học các VBVH sau 1975 ở nhà trường THPT còn nhiều vấn đề vướng mắc.

Những nhận thức chưa đầy đủ về bộ phận văn học giai đoạn này cùng với cách thức, lối tiếp cận các VB cứng nhắc, sáo mòn và lối tư duy đơn điệu một chiều đã làm cho việc dạy học các TP ấy chưa đạt hiệu quả cao. Do đó, tôi nhận thấy rằng cần có các quan điểm tiếp cận, đánh giá sao cho phù hợp với ngưỡng nhận thức của HS THPT để từ đó các em có được được một cơ sở, nền tảng cần thiết cho việc tiếp cận các TP văn học Việt Nam từ sau năm 1975. Xuất phát từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như những nhận xét, đánh giá từ các đồng nghiệp dạy Ngữ văn tại trường THPT Diễn Châu 2, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, tôi nhận thấy việc rèn luyện TDĐC trong dạy học văn ở nhà trường THPT là điều hết sức cần thiết. Có thể nói, qua những vấn đề đặt ra trong các TP sẽ giúp các em biết cách nhìn sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ khác nhau, tránh được lối suy nghĩ thiện cận, phiến diện. Nhờ đó, giúp các em bao quát hơn trong cái nhìn cuộc sống và đi đến những hành động đúng đắn. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Rèn luyện tư duy đa chiều cho học sinh THPT qua dạy học đọc hiểu văn bản sau 1975 (Ngữ văn 12) theo hướng phát triển năng lực” với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả những giờ dạy học đọc hiểu văn bản sau 1975 trong chương trình Ngữ văn 12 và phát huy năng lực nhìn nhận, đánh giá toàn diện, nhiều chiều trên hành trình hoàn thiện nhân cách của học sinh.

pdf 46 trang Trang Lê 02/09/2025 410
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện tư duy đa chiều cho học sinh THPT qua dạy học đọc hiểu văn bản sau 1975 (Ngữ Văn 12) theo hướng phát triển năng lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Rèn luyện tư duy đa chiều cho học sinh THPT qua dạy học đọc hiểu văn bản sau 1975 (Ngữ Văn 12) theo hướng phát triển năng lực

SKKN Rèn luyện tư duy đa chiều cho học sinh THPT qua dạy học đọc hiểu văn bản sau 1975 (Ngữ Văn 12) theo hướng phát triển năng lực
 Ngữ văn và 
HS khối 12. 
 CHƯƠNG III. 
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỀ VIỆC RÈN LUYỆN TDĐC CHO HS QUA 
DẠY HỌC VBVH SAU 1975 
3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm 
Thực nghiệm sư phạm là một khâu quan trọng trong nghiên cứu đề tài khoa 
học. Tôi tiến hành thực nghiệm nhằm những mục đích sau: 
- Kiểm chứng tính phù hợp và tính khả thi của đề tài với thực tiễn dạy học đọc 
hiểu VBVH sau 1975 (Ngữ văn 12). 
- Chứng minh tính vận dụng của các biện pháp áp dụng đề xuất trong đề tài để 
rèn luyện TDĐC. 
- Qua TN, tôi cũng mong muốn phát hiện ra những hạn chế trong các biện 
pháp, hoặc nhận ra được biện pháp được đề xuất để từ đó có ưu điểm, nhược điểm 
gì từ đó có các giải pháp điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn dạy học, hoàn thiện 
đề tài. 
3.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian và quy trình thực nghiệm 
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm và địa bàn thực nghiệm 
- Đối tượng thực nghiệm: HS lớp 12, và GV dạy lớp 12 ban cơ bản. 
- Địa bàn thực nghiệm: Trường THPT Diễn Châu 2 – Diễn Châu – Nghệ An. 
Chúng tôi chọn 4 lớp (2 lớp thực nghiệm, 2 lớp đối chứng). Cụ thể như sau: 
Lớp HS dạy Thời điểm nhận lớp 
Đối chứng 
12N 42 Hoàng Ngọc Hà 5/9/2022 
12Q 40 Hoàng Ngọc Hà 5/9/2022 
Thực Nghiệm 
12G 39 Phạm Thị Huế 5/9/2022 
12P 40 Phạm Thị Huế 5/9/2022 
Bảng 4: Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng 
3.2.2. Thời gian thực nghiệm 
Học kì 2 - Năm học 2021 – 2022 
Học kì 2 - Năm học 2022 – 2023 
3.2.3. Quy trình thực nghiệm 
Bước 1: Chuẩn bị TN: Xác định nội dung, đối tượng, thời gian và địa bàn TN; 
gặp gỡ, trao đổi với các GV và HS lớp TN. 
Bước 2: Tiến hành TN 
 - Xây dựng giáo án: Lên ý tưởng, vận dụng các biện pháp đã đề xuất vào từng 
bài cụ thể. Trong quá trình xây dựng giáo án tôi luôn chú trọng nguyên tắc: đảm 
bảo kiến thức, kỹ năng cơ bản và nhấn mạnh “tính mở” của giáo án. Với phương 
châm giáo án chỉ là “kịch bản”, “bản thiết kế sơ lược” của bài học, tôi chủ yếu xây 
dựng các ý tưởng để HS thực hiện. 
- Đối với GV TN, tôi chỉ làm việc, trao đổi về ý tưởng và các PPDH VB sau 1975, 
còn vẫn tôn trọng cá tính của mỗi GV trong việc xây dựng giáo án giảng dạy. 
Qua đó, tôi đánh giá khả năng ứng dụng, tính lan tỏa của biện pháp dạy học 
mà sáng kiến đề xuất nhằm rèn luyện TDĐC cho HS trong dạy học VB sau 1975. 
Giáo án đối chứng thì tùy mỗi GV dạy tự xây dựng. 
+ Tổ chức dạy học trên lớp: GV dạy sẽ làm việc trực tiếp với HS TN, lên ý tưởng, 
giao nhiệm vụ chuẩn bị bài học theo yêu cầu của từng biện pháp và từng bài học. 
+ Kiểm tra kết quả TN: tôi sẽ đồng thời tiến hành kiểm tra HS cả lớp TN và 
đối chứng sau các tiết học TN và ĐC, quan sát và ghi chép cụ thể khả năng đáp 
ứng giáo án của HS. Tôi lấy các ý kiến đánh giá của GV dự giờ như một phương 
diện kiểm tra kết quả TN. 
- Bước 3: Xử lý kết quả 
Từ việc thu nhận kết quả TN qua thực tế giờ TN, bài làm của HS, và các nhận 
xét đánh giá của GV dự giờ, tôi tiến hành tổng hợp và phân tính những mặt ưu 
nhược điểm của biện pháp. 
3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm 
Xây dựng giáo án thực nghiệm: cụ thể giáo án được bố trí ở Phụ lục 8,9 và 
đăng tải lên Website điện tử 
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm 
Biện pháp thực nghiệm là cho HS làm các bài thi NL 
Hình thức kiểm tra: Tự luận thời gian kiểm tra: 90’ 
Thang điểm : 10.0 điểm 
Trước khi áp dụng biện pháp, tiến hành kiểm ta NL của HS trên cả 2 đối 
lượng HS dự kiến sẽ TN và ĐC. 
Lớp Sĩ số 
Số điểm HS kiểm tra đạt Xi Điểm 
TB 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
ĐC 
=82 
12N 42 1 3 5 1 3 10 11 4 2 4 6.09 
12Q 40 2 1 3 2 3 9 12 5 2 1 6.05 
TN 
79 
12G 39 3 1 3 3 4 7 9 5 4 3 6.12 
12P 40 1 2 3 2 3 9 13 5 2 1 6.10 
Bảng 5. Số HS đạt điểm Xi trước khi thực nghiệm 
 Như vậy, qua bảng 4 quan sát điểm thống kê thấy 2 nhóm HS được chọn làm 
thực nghiệm và đối chứng là tương đương nhau về khả năng học tập và tiếp thu. 
Để so sánh mức độ rèn luyện NL TDĐC giữa lớp TN và lớp ĐC, sau thời 
gian áp dụng biện pháp, tôi tổ chức kiểm tra NL của HS vẫn thực hiện trên các đối 
tượng đã lựa chọn trước đó. 
Lớp Sĩ số 
Số điểm HS kiểm tra đạt Xi Điểm 
TB 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
ĐC 
=82 
12N 42 3 1 5 1 3 9 12 4 2 4 6.07 
12Q 40 1 2 3 2 3 6 14 5 2 2 6.23 
TN 
=79 
12G 39 0 0 0 1 2 4 7 13 10 5 7.88 
12P 40 0 0 0 1 1 9 8 10 8 4 7.59 
Bảng 6: Kết quả điểm bài kiểm tra của lớp TN và ĐC 
Để đánh giá thực chất kết quả học tập của HS sau mỗi tiết dạy có vận dụng 
PP rèn luyện TDĐC trong dạy học đọc hiểu VB sau 1975 theo hướng phát 
triển NL HS THPT, tôi đã tiến hành đánh giá trên các tiêu chí sau: 
3.4.1. Kết quả nhận thức của HS 
Từ quá trình dạy TN và tổng hợp kết quả làm bài kiểm tra của lớp TN (tổng 
số 79 HS) và lớp ĐC (tổng số 82 HS), chúng tôi nhận thấy: có sự chênh lệch rõ rệt 
về điểm giữa 2 nhóm TN và ĐC ở tất cả các mức điểm. Cụ thể: 
- Ở lớp TN: Lớp 12G điểm TB là 8.88 (trước khi áp dụng là 6.12), Lớp 12P 
điểm TB là 7.59 (Trước khi áp dụng biện pháp là 6.10). Số HS đạt điểm Giỏi 
(50/79 chiếm 63.3%) và điểm Khá ( 35,4%) cao hơn lớp ĐC (trong khi số HS Giỏi 
là 20,2%), tỷ lệ điểm TB cũng được hạn chế ở mức thấp hơn (1,8% so với 29.6%). 
Nhận thấy có sự chênh lệch điều đó chứng tỏ khả năng tư duy bậc cao, TDĐC ở 
các em có dấu hiệu phát triển rất khả quan. Các em có thức thể hiện chính kiến, 
vận dụng linh hoạt kiến thức, biết cách đưa lập luận để bảo vệ quan điểm một cách 
thẳng thắn, hạn chế sự thụ động trong việc giải quyết nhiệm vụ học tập. Có không 
ít bài viết thể hiện tư duy và lập luận sắc sảo, minh bạch có tính thuyết phục cao. 
- Ở lớp ĐC: Tỷ lệ điểm trung bình và yếu cao hơn ở các lớp TN. Nguyên nhân 
là do dù nắm được kiến thức về tác giả TP nhưng HS còn tiếp nhận và xử lý kiến 
thức máy móc, khả năng lập luận còn đơn giản, phiến diện, lỗi diễn đạt tương đối 
nhiều. 
Kết quả trên đã chứng tỏ: HS được học tập trong một môi trường mà GV vận 
dụng PP rèn luyện TDĐC được khuyến khích thì NL TDĐC của các em cũng được 
 phát triển. HS có cái nhìn nhiều chiều về một vấn đề của cuộc sống, có ý thức lật đi 
lật lại vấn đề để hiểu một cách sâu sắc thấu đáo, có kĩ năng tốt trong việc sử dụng 
các lập luận để khẳng định ý kiến của bản thân. 
3.4.2. Kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn 
- Đối với lớp ĐC, GV khai thác tương đối sâu các yếu tố nội dung và nghệ 
thuật TP, nhưng HS lĩnh hội kiến thức còn đơn chiều, chủ yếu phụ thuộc vào ý 
kiến chủ quan của GV mà chưa tích cực, chủ động trong việc đánh giá hiện tượng 
cuộc sống và văn học. 
- Ở lớp TN: do mục đích rèn luyện NL TDĐC nên GV tích cực đổi mới PP. 
HS không chỉ được lắng nghe, quan sát mà còn được trải nghiệm, việc lĩnh hội tri 
thức vì thế mà đa dạng và chủ động hơn. 
- Các tiết dạy đối chứng, HS được rèn các kĩ năng cơ bản như: đọc hiểu VB, 
sử dụng ngôn ngữ, lắng nghe. 
- Các tiết dạy TN, ngoài những kĩ năng trên, HS được chú ý rèn luyện các kĩ 
năng của TDĐC: thu thập và xử lý thông tin, đặt câu hỏi, phân tích, đánh giá, so 
sánh các quan điểm, tự điều chỉnh thông qua các hoạt động dạy học. 
3.4.3. Mức độ hứng thú của HS đối với giờ học đọc hiểu VB sau 1975 
- Các tiết học ĐC: GV vẫn là người thuyết giảng chính, HS chủ yếu nghe và 
ghi chép, không có cơ hội được bày tỏ chính kiến, lập luận. Dù lời giảng của GV 
khá truyền cảm, nhưng sự tương tác giữa GV và HS còn ít cho nên dễ rơi vào sự 
nhàm chán. 
- Các tiết học TN: HS được tạo nhiều cơ hội để thể hiện mình, rèn luyện các 
kĩ năng tư duy và kĩ năng giao tiếp vì thế các em tỏ là thích thú và hào hứng hơn. 
Các kĩ thuật dạy học tích cực được vận dụng làm giờ học sôi nổi hơn, GV không 
phải thuyết trình nhiều mà chủ yếu là lắng nghe và điều chỉnh. Những HS mạnh 
dạn, tự tin rất thích các tiết học như vậy. Tuy nhiên, có những HS vốn e dè nhút 
nhát không tỏ ra học hết mình. Nhưng những tiết học như vậy là điều kiện để các 
em phải vượt lên chính mình, tự phá bỏ sự sợ hãi vô hình để tự tin hơn trong học 
tập và trong cuộc sống. 
 PHẦN III. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
1. Kết luận. 
Từ các kết quả thu được ở trên có thể kết luận, đề tài đã: 
- Trình bày được cơ sở lí luận của việc vận dụng các PP để rèn luyện TDĐC 
trong dạy học đọc hiểu văn sau 1975 cho HS THPT. 
- Phân tích được thực trạng nhận thức và thực trạng GD về việc rèn luyện 
TDĐC cho HS. 
- Xây dựng các bước cụ thể trong tiến trình tổ chức rèn luyện TDĐC; đưa ra 
một số biện pháp để dạy học đọc hiểu VBsau 1975 nhằm rèn luyện TDĐC cho HS 
- Thiết kế giáo án dạy học “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ) theo 
định hướng phát triển NL, phẩm chất HS hướng tới Rèn luyện TDĐC cho HS. 
- Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Rèn luyện TDĐC cho HS THPT qua 
dạy học đọc hiểu VB sau 1975 (Ngữ văn 12) theo hướng phát triển NL” tôi đã 
gặp gỡ, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm với nhiều GV. 
Như vậy, việc đổi mới PPDH theo hướng phát triển NL và phẩm chất là 
hướng đi phù hợp, là đòn bẩy để đưa GD nước nhà bắt kịp với những đòi hỏi của 
thời đại. Một trong những đổi mới quan trọng, đó là chuyển từ nền GD tập trung 
vào việc trang bị kiến thức sang tập trung phát triển kỹ năng thực hành, khả năng 
tự học, NL giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo,đặc biệt TDĐC. 
Việc GV tập trung rèn luyện cho HS TDĐC thông qua các hình thức dạy học chính 
là giúp các em phát triển tư duy độc lập, sự tự tin, năng động, sáng tạo để các em 
có một hành trang vững chắc, tự tin bước vào đời. Nên khi nghiên cứu đề tài này, 
tôi cũng hi vọng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp trong dạy học 
đọc hiểu VB sau 1975 nói riêng và môn Ngữ văn nói chung. 
2. Kiến nghị 
- Đối với các cấp quản lý GD. 
+ Việc vận dụng PP dạy học tích cực vào quá trình dạy và học chỉ mang lại 
kết quả cao, bền vững khi các cấp quản lý GD đặc biệt quan tâm từ khâu biên soạn 
SGK, tài liệu tham khảo. Trong CT GDPT mới, cần được thiết kế theo các chủ đề 
thông qua việc xâu chuỗi hệ thống những kiến thức cốt lõi. Yêu cầu cần đạt của 
các chủ đề tập trung vào việc phát triển NL, phẩm chất HS, không đặt trọng tâm 
vào việc củng cố kiến thức. Ngoài ra, các cấp quản lí GD cần trang bị cơ sở vật 
chất như máy chiếu, loa, đài, máy tính.để nâng cao hiệu quả dạy học. 
+ Hiện nay, trong CT GDPT mới, Ngữ văn là một trong 5 môn học bắt buộc. 
Thực tế đó đòi hỏi cần tăng cường tập huấn, trao đổi chuyên môn giữa các đồng 
nghiệp trong tổ, giữa các trường trong huyện, tỉnh để nâng cao chất lượng đáp ứng 
yêu cầu đặt ra của CT SGK mới. 
 + Sở GD & ĐT thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho GV về đổi 
mới PPDH thông qua xây dựng, tổ chức dạy học theo chủ đề. 
+ Tổ chức các cuộc thi hàng năm về dạy học theo chủ đề, rút kinh nghiệm để GV 
có thêm cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng với các đồng nghiệp và cấp trên. 
+ Cần nhân rộng các sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn. 
- Đối với GV 
+ Rèn luyện NL TDĐC là triết lý GD đúng đắn trong thời hiện đại. Vì vậy, mỗi 
GV trong đó có GV dạy văn cần phải thường xuyên đổi mới PP, nỗ lực tìm tòi để góp 
phần vào việc phát triển HS không chỉ về nhân cách, tâm hồn, mà còn cả NL tư duy. 
NL TDĐC không thể được phát triển trong một vài tiết dạy mà đòi hỏi sự kì công của 
các GV. Vì vậy, trên cơ sở những biện pháp tôi đề xuất, các đồng nghiệp có thể nhân 
rộng các tiết dạy theo hướng phát triển NL TDĐC ở nhiều tiết dạy học khác. Việc vận 
dụng cần sự linh hoạt, sáng tạo tâm huyết trong từng bài cụ thể. 
+ Để phát triển NL TDĐC, GV không chỉ trông chờ vào các bài giảng, mà tận 
dụng các đề thi và kiểm tra định kì, sao cho đề bài không chỉ là công cụ đánh giá 
mà còn là một tình huống, cơ hội để rèn luyện NL TDĐC cho HS. 
+ GV không ngừng học tập, nâng cao NL chuyên môn nghiệp vụ, tích cực 
ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy học. 
+ Các đồng nghiệp trong trường hỗ trợ nhau cùng nhau thảo luận, xây dựng 
các chủ đề dạy học theo hướng phát triển NL và phẩm chất. 
- Đối với HS: 
+ HS cần có sự chuẩn bị chu đáo bài ở nhà. Từ kiến thức và kỹ năng cụ thể 
trong giờ học trên lớp, HS tự rút ra cho mình PP học tập, tự tìm tòi tài liệu, để rèn 
luyện kỹ năng và phát triển NL, phẩm chất. 
+ Biết cách sắp xếp lại các kiến thức đã học theo chủ đề cho dễ hiểu bài. Biết 
vận dụng các kiến thức đã được học để giải quyết các vấn đề thực tiễn. 
+ Biết cách sử dụng các kiến thức thực tiễn và kiến thức liên môn trong giải 
quyết các bài tập và làm bài kiểm tra. 
Tôi thiết nghĩ đề tài này là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực không chỉ đối với 
việc giảng dạy kiến tạo tri thức Ngữ văn sau 1975 mà sâu hơn nó phát triển các 
NL, phẩm chất cần thiết cho HS. Rất mong được sự góp ý, bổ sung từ hội đồng 
khoa học các cấp và bạn bè, đồng nghiệp để tôi làm tốt hơn trong công tác chuyên 
môn của mình. 
Xin chân thành cảm ơn! 
Người thực hiện 
Phạm Thị Huế 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt: 
[1] Thomas Armstrong (2011), Đa trí tuệ trong lớp học, Nxb GD 
[2] Hoàng Hòa Bình (2015), “NL và đánh giá NL” Tạp chí Khoa học ĐHSP 
TPHCM, số 6 (71), tr. 21-31 
[3] Bộ GD và Đào tạo (2009), Ngữ văn 12, tập 2, Nxb GD 
[4] Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy (8/2013), “Vận dụng thuyết đa trí 
tuệ trong dạy học ở trường phổ thông”, Tạp chí GD (số 316), tr. 34-36 
[5] Nguyễn Viết Chữ (2015), PP dạy học TP văn chương, Nxb Đại học sư 
phạm. 
[6] Sử Khiết Doanh và Lưu Tiểu Hòa (2009), Kĩ năng giảng bài, kĩ năng nêu 
vấn đề, Nxb GD Việt Nam 
[7] Nguyễn Thế Dũng (2015), Nghiên cứu sử dụng mô hình lớp học đảo 
ngược những khó khăn thách thức và khả năng ứng dụng, Tạp chí Khoa học (Đại 
học Sư phạm Hà Nội 
[8] Phạm Văn Đồng (1973), “Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”, 
Nghiên cứu GD. 
[9] Bùi Minh Đức (2013), “NL và vấn đề phân loại NL trong các nghiên cứu 
hiện nay”, Tạp chí GD (số 306), tr.28-31. 
[10] Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang (2011), “Tư duy phản biện - Criticai 
Thingking”, Viện Nghiên cứu GD, Hà Nội 
[11] Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học TP 
văn chương, Nxb GD 
[12] Ngô Hữu Hoàng (2018), “Dạy tư duy phản biện trong nhà trường”, Tạp 
chí GD và xã hội, (16/10/2018) 
[13] Bùi Mạnh Hùng (2014), “Phác thảo CT Ngữ văn theo định hướng phát 
triển NL”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn 
bản, toàn diện GD phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tr. 33-54. 
[14] Lê Thị Hường (2008), Chuyên đề dạy học Ngữ văn 12, Chiếc thuyền 
ngoài xa, Nxb GD 
[15] Kharlamôp (1978), Phát huy tính tích cực của HS như thế nào?, tập 1, 
Nxb GD, Hà Nội. 
[16] Nguyễn Lân (2007), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Văn học. 
[17] Edward de Bono (2021), (Hải Yến dịch) TDĐC PP sáng tạo không giới 
hạn, Nxb Thế Giới 
 PHỤ LỤC 9: SẢN PHẨM 
1. Kịch : “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” 
Link: 
2.Tiết dạy: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” 
Link: 
3. Giáo án điện tử MS PP đăng tải lên trang web 
+ Tiết 88,89,90,91 : “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” 
+ Tiết 77,78,79 : “Chiếc thuyền ngoài xa” 
4. Giáo án soạn trên MS word đăng tải lên trang web 
+ Tiết 88,89,90,91 : “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” 
+ Tiết 77,78,79 : “Chiếc thuyền ngoài xa” 

File đính kèm:

  • pdfskkn_ren_luyen_tu_duy_da_chieu_cho_hoc_sinh_thpt_qua_day_hoc.pdf