SKKN Sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Ngữ Văn 7
Năm học 2023- 2024 là năm học thứ 3 thực hiện chương trình GDPT 2018. Mục tiêu trọng tâm của chương trình GDPT 2018 là phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người học. Vì vậy, thầy cô cần phải có phương pháp dạy học phù hợp. Thầy cô vừa nhanh nhạy tiếp cận với chương trình mới, đồng thời phải nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp giảng dạy, đồ dùng thiết bị dạy học tích cực. Trong dạy học Ngữ văn, việc sử dụng phiếu học tập (PHT) là một trong những phương pháp tích cực để phát triển năng lực tự học, sáng tạo từ đó nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7, tôi nhận thấy phương pháp sử dụng PHT là cần thiết trong đổi mới phương pháp giáo dục ở nhà trường hiện nay. Phương pháp dạy học này đã được sử dụng ở hầu hết các môn học, trong đó có môn Ngữ văn. Nhưng PHT sử dụng không được thường xuyên, hiệu quả còn thấp bởi giáo viên ngại thiết kế, chỉ sử dụng ở một số tiết học thanh tra, thao giảng. Nếu PHT có được sử dụng thì vẫn còn mang tính hình thức và chưa thực sự gây hiệu quả. Thực tế, giáo viên chỉ sử dụng PHT vào hoạt động dạy học trên lớp. Ít sử dụng PHT vào hoạt động hướng dẫn soạn bài ở nhà, cũng như sử dụng vào kiểm tra đánh giá thường xuyên học sinh. Bởi vậy hiệu quả của việc sử dụng PHT chưa được phát huy hết.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Ngữ Văn 7

C TẬP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN 7 PHẦN I. NỘI DUNG BIỆN PHÁP 1. Lí do chọn biện pháp Năm học 2023- 2024 là năm học thứ 3 thực hiện chương trình GDPT 2018. Mục tiêu trọng tâm của chương trình GDPT 2018 là phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người học. Vì vậy, thầy cô cần phải có phương pháp dạy học phù hợp. Thầy cô vừa nhanh nhạy tiếp cận với chương trình mới, đồng thời phải nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp giảng dạy, đồ dùng thiết bị dạy học tích cực. Trong dạy học Ngữ văn, việc sử dụng phiếu học tập (PHT) là một trong những phương pháp tích cực để phát triển năng lực tự học, sáng tạo từ đó nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7, tôi nhận thấy phương pháp sử dụng PHT là cần thiết trong đổi mới phương pháp giáo dục ở nhà trường hiện nay. Phương pháp dạy học này đã được sử dụng ở hầu hết các môn học, trong đó có môn Ngữ văn. Nhưng PHT sử dụng không được thường xuyên, hiệu quả còn thấp bởi giáo viên ngại thiết kế, chỉ sử dụng ở một số tiết học thanh tra, thao giảng. Nếu PHT có được sử dụng thì vẫn còn mang tính hình thức và chưa thực sự gây hiệu quả. Thực tế, giáo viên chỉ sử dụng PHT vào hoạt động dạy học trên lớp. Ít sử dụng PHT vào hoạt động hướng dẫn soạn bài ở nhà, cũng như sử dụng vào kiểm tra đánh giá thường xuyên học sinh. Bởi vậy hiệu quả của việc sử dụng PHT chưa được phát huy hết. Đầu năm học 2023-2024, tôi đã khảo sát thăm dò sự hứng thú học văn trong học sinh 2 lớp 7a và 7b, kết quả như sau: Tổng HS Tiêu chí (Khảo sát và học lực) Khi chưa áp dụng Số lượng Tỉ lệ % 67 HS yêu thích, hứng thú học. 26 38.8 HS không yêu thích, không hứng thú học. 41 61.1 Xếp loại khảo sát Tốt 9 13,4 Khá 30 44,7 Đạt 10 14,9 Chưa đạt 18 26,8 Để sử dụng PHT dễ dàng, mang lại hiệu quả cần một số biện pháp sử dụng được trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và hiệu quả cho mọi tiết dạy. Xuất phát từ lý do mang tính thực tiễn đó, cùng với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi đã lựa chọn biện pháp:“Sử dụng phiếu học tập để nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Ngữ văn 7”. 2. Mục đích của biện pháp Nghiên cứu biện pháp này trước hết đáp ứng được một phần nhiệm vụ quan trọng của môn Ngữ văn nói riêng và của giáo dục nói chung là hình thành và phát triển các năng lực chung như tự chủ, tự học, giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực chuyên biệt – năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Từ đó hướng đến hình thành những năng lực cần thiết phục vụ cuộc sống của các em như năng lực tư duy, giải quyết vấn đề. Khi áp dụng biện pháp này tôi đã hướng tới những kết quả cần đạt được của biện pháp sát với thực tế đó là: Giúp học sinh đại trà có phương pháp học tập phù hợp, hiệu quả với từng đối tượng và học sinh sẵn sàng tiếp nhận nhiệm vụ học tập. Học sinh sẽ không còn cảm thấy khó khăn khi chuẩn bị bài ở nhà. Thông qua các kênh giao tiếp, dễ dàng trao đổi với giáo viên những vướng mắc mình gặp phải (trực tiếp hoặc gián tiếp qua tin nhắn mạng xã hội). Giáo viên sẽ đánh giá đúng năng lực, thái độ, phẩm chất và sự tiến bộ của học sinh. 3. Cách thức tiến hành 3.1. Thiết kế phiếu học tập - Định hướng ý tưởng: Giáo viên xác định mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, phẩm chất của bài học; nắm được hệ thống câu hỏi của sách giáo khoa. Sau đó, giáo viên xác định những nội dung thật sự cần thiết sử dụng PHT; suy nghĩ để lựa chọn phương pháp sử dụng PHT vào trong tiến trình dạy học và kết hợp với kĩ thật dạy học sao cho hợp lí, gợi sự hứng thú ở học sinh. Một tiết dạy học trên lớp chỉ nên sử dụng từ 1 hoặc 2 PHT để tránh gây sự nhàm chán cho học sinh. - Lựa chọn nội dung và hình thức trình bày: Sau khi đã có ý tưởng thiết kế PHT cho bài học, giáo viên sẽ thiết kế PHT phù hợp về nội dung, hình thức, kĩ thuật dạy học cụ thể. Khi thiết kế PHT, giáo viên trình bày bằng văn bản, sơ đồ tư duy, biểu mẫu, và lựa chọn chất liệu cho PHT tùy thuộc vào nội dung như sử dụng giấy A4, A3, A0, bảng phụ của học sinh, thiết kế trên Powerpoint. Trong PHT có đưa ra các thang tiêu chí đánh giá cụ thể để căn cứ nhận xét mức độ thực hiện nhiệm vụ của học sinh. - Trình bày phiếu học tập: Nội dung đưa vào PHT được trình bày ngắn gọn, dễ hiểu; sử dụng dạng văn bản kết hợp sơ đồ, hay poster, slide Powerpoint. Hình thức trình bày có thể thiết kế trên Powerpoint sinh động, bắt mắt. Hoặc có thể trình bày trên giấy A4, A0 để khơi gợi sự sáng tạo, hứng thú học tập cho các em. Đối với PHT giao bài về nhà cho học sinh, giáo viên thiết kế nội dung có gợi ý và khuyến khích cho học sinh tự trình bày để phát huy sự sáng tạo trong môn học, phát huy trí tưởng tượng, năng khiếu mĩ thuật, gu thẩm mỹ của học sinh. Thiết kế PHT đảm bảo có đủ tên phiếu (PHT), tên bài học, yêu cầu và những khoảng trống để học sinh tự trả lời. GV dự định sử dụng nhiều hơn một PHT thì ghi rõ là PHT số mấy trên các phiếu. 3. 2. Sử dụng phiếu học tập vào quá trình học tập của học sinh 3.2.1. Sử dụng phiếu học tập để giao bài về nhà Để tiếp nhận nội dung các đơn vị kiến thức trong tiết học, học sinh phải soạn bài. Đa số các em soạn bài theo hệ thống câu hỏi trong sách một cách đối phó (sao chép vở bạn, tài liệu tham khảo trên mạng). Thực tế hiện nay, việc học sinh không đọc văn bản, hay yêu cầu của câu hỏi nhưng vẫn soạn bài đầy đủ diễn ra phổ biến. Bởi vậy, khi vào tiết học nhiều câu hỏi giáo viên đặt ra học sinh không trả lời được. Giáo viên mặc dù có kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh nhưng khó kiểm soát tình trạng học sinh làm đối phó. Nhưng khi sử dụng PHT để giao bài về nhà cho học sinh, sẽ giúp giáo viên kiểm tra được ý thức chuẩn bị bài cũng như mức độ hiểu bài và vận dụng của học sinh. Từ đó phát hiện thiếu sót của các em, kịp thời điều chỉnh hướng dạy trên lớp cũng như việc bồi dưỡng cho các em học sinh khá giỏi môn Ngữ văn. Và để sử dụng PHT hiệu quả, phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh, tôi đã áp dụng linh hoạt biện pháp này với 5 bước thực hiện như sau: Thứ nhất: GV lựa chọn nội dung, nhiệm vụ học tập để thiết kế PHT. GV thiết kế PHT phù hợp với mỗi kiểu bài, trong phiếu xác định rõ nhiệm vụ học tập của học sinh. Nội dung PHT có gợi ý cụ thể để đối tượng học sinh yếu kém, thụ động có thể thực hiện được nhiệm vụ tùy theo năng lực. Sau đó gửi cho học sinh nghiên cứu, làm bài trước khi vào tiết học. Giáo viên giao PHT trực tiếp, hoặc gửi bản mềm qua Messenger, Zalo nhóm lớp. Thứ hai: Học sinh hoàn thiện yêu cầu trong PHT. Học sinh nhận nhiệm vụ, nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu tham khảo kết hợp hiểu biết của mình để hoàn thiện PHT. Học sinh nộp sản phẩm PHT trước buổi học cho giáo viên. Tùy thuộc yêu cầu của giáo viên học sinh lựa chọn hình thức và nội dung báo cáo phù hợp. (Học sinh có thể báo cáo sản phẩm học tập qua bản mềm gửi Messenger; hình ảnh, quay video; làm powerpoint) Thứ ba: Học sinh báo cáo kết quả học tập trên PHT, đề xuất các phương án điều chỉnh. Học sinh có thể chụp hình ảnh PHT hoàn thành ở nhà đưa lên màn hình tivi, máy chiếu để trình chiếu và thuyết trình sản phẩm. Thứ tư: Giáo viên góp ý, hỗ trợ và giải đáp những vướng mắc của học sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thứ năm: Giáo viên nhận xét kết quả thực hiện nhiệm vụ, cách thức trình bày của học sinh. Ví dụ: Khi dạy tiết đọc văn bản “Người thầy đầu tiên”, để tìm hiểu nhân vật thầy giáo Đuy-sen, giáo viên thiết kế PHT và yêu cầu HS về nhà hoàn thành PHT sau: Học sinh muốn thực hiện được yêu cầu của PHT bắt buộc phải đọc hiểu văn bản, nắm được chi tiết miêu tả từ lời nói, hành động, suy nghĩ của nhân vật. Bước đầu sẽ giúp các em tiếp nhận nội dung văn bản một cách khái quát theo năng lực cảm nhận của mình. Trên lớp, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung văn bản theo ý đồ thiết kế bài dạy đã định hướng. 3.2.2 Sử dụng phiếu học tập vào tiến trình dạy học * Hoạt động khởi động Khởi động là hoạt động đầu tiên nhằm giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến bài học mới. Muốn khởi động bài học hiệu quả trước hết phải tạo được hứng thú cho học sinh. Sử dụng PHT cũng là một trong những cách để học sinh tiếp nhận bài mới một cách hứng thú và hiệu quả. Ví dụ: Dạy tiết văn bản “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” – Nguyễn Ngọc Thuần: Mục tiêu của bài học là giúp người học nhận thức được cội nguồn yêu thương làm điểm tựa để con người hạnh phúc và luôn vững vàng trên hành trình trưởng thành ở mọi thời đại, biết trân trọng cảm phục những người sống biết yêu thương. Giáo viên tổ chức hoạt động kết nối từ thực tế của cuộc sống bằng cách yêu cầu học sinh hoàn thành PHT sau: Tên........lớp...... Phiếu học tập * Hoạt động hình thành kiến thức Đối với hoạt động hình thành kiến thức, giáo viên sử dụng PHT được cho tất cả các tiết học như: Đọc, viết, nói và nghe. Nếu giáo viên tổ chức hoạt động nhóm thì việc dùng PHT để thực hiện nhiệm vụ là một giải pháp tối ưu vừa tiết kiệm thời gian hoạt động, vừa mang lại nhiều hiệu quả. Học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức nhờ sự hợp tác hỗ trợ giữa các thành viên trong nhóm. Nhờ vậy mà học sinh sẽ đáp ứng được yêu cầu về mục tiêu kiến thức bài học. Thông qua hoạt động nhóm, giải quyết yêu cầu của PHT thì sẽ phát huy năng lực của từng học sinh. Nhờ việc hợp tác cùng nhau, các em rèn luyện được năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp, tự chủ, trách nhiệm và sáng tạo. Như vậy PHT kết hợp hoạt động nhóm đã thực sự đáp ứng được yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Việc thiết kế PHT đi kèm những câu hỏi gợi ý giúp các em dễ dàng tiếp nhận được nhiệm vụ và thực hiện một cách nhanh nhất đúng theo thời gian quy định; hình thành cho các em kĩ năng giải quyết các nhiệm vụ khi bắt gặp các vấn đề tương tự mà không còn bỡ ngỡ. PHT có thể sử dụng cá nhân, cặp đôi, hoặc nhóm lớn tùy vào thời gian hoạt động cũng như kiến thức nhiều hay ít, khó hay dễ. Một tiết dạy đọc hiểu văn bản thường có nội dung tìm hiểu về tri thức Ngữ văn, tác giả và tác phẩm. Sử dụng PHT để tìm hiểu các nội dung quen thuộc như: tri thức Ngữ văn; tác giả (tên, năm sinh, năm mất, cuộc đời, sự nghiệp, phong cách nghệ thuật); tác phẩm (phương thức biểu đạt, ngôi kể, bố cục,) tiết kiệm rất nhiều thời gian. Giáo viên hướng dẫn nội dung của PHT chi tiết để học sinh tìm hiểu thông tin ở sách giáo khoa, internet, sách báoTrên lớp, giáo viên sử dụng phương pháp dự án kết hợp với hoạt động nhóm và PHT để học sinh chia sẻ kiến thức. Hoạt động này dần hình thành được kỹ năng cho các em vừa đáp ứng tinh thần dạy học tích cực (học sinh đặt vào trung tâm của hoạt động dạy học). Hoặc những văn bản dài, giáo viên sử dụng PHT kết hợp phương pháp đàm thoại gợi mở để thay đổi không khí và nhiệm vụ. Ví dụ: Khi dạy tiết đọc văn bản “Tháng giêng, mơ về trăng non rét ngọt”, GV sử dụng PHT sau: Ví dụ : Dạy tiết thực hành tiếng Việt giáo viên sử dụng PHT kết hợp với kĩ thuật KWL để hình thành kiến thức cho học sinh: Bài 2-Tiết 31. Phó từ * Hoạt động luyện tập Với hoạt động luyện tập, tôi thường sử dụng PHT cho các tiết Thực hành tiếng Việt và Viết. Trong một tiết học thực hành tiếng Việt có nhiều bài tập với những đơn vị kiến thức khác nhau. Bởi vậy tôi đã sử dụng PHT kết hợp hoạt động nhóm là cách hợp lý nhất để giải quyết một lúc được nhiều bài tập, tiết kiệm thời gian và học sinh tích cực làm việc. Hoạt động này sử dụng PHT càng giúp học sinh củng cố được kiến thức, rèn luyện được những năng lực tư duy ở học sinh. VÍ DỤ: Ở TIẾT DẠY THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT “NGỮ CẢNH VÀ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ TRONG NGỮ CẢNH”, GIÁO VIÊN CÓ THỂ SỬ DỤNG PHT CHO HOẠT ĐỘNG NHÓM BÀI TẬP 1 VÀ 2 /TR 92 SAU: Như vậy, chúng ta thấy rằng sử dụng PHT vào dạy học môn Ngữ văn không khó và hiệu quả mang lại rất rõ nét. Ở mỗi bài học giáo viên đều có thể thiết kế các nhiệm vụ học tập trên phiếu để học sinh có nhiều thời gian thể hiện năng lực của bản thân. PHT còn có một ý nghĩa khác đó là nếu như thời lượng tiết học đã hết thì học sinh có thể mang phiếu về nhà để hoàn thành vào vở sau khi giáo viên đã có chữa, chốt kiến thức trên phiếu. Như vậy giờ học trôi qua sẽ đảm bảo được về mặt kiến thức, không gây áp lực cho học sinh về mặt thời gian. Các em sẽ được rèn luyện, trưởng thành dần trong không khí làm việc nhóm với tinh thần hợp tác, tự chủ, trách nhiệm, và sáng tạo. 3. 3 Sử dụng phiếu học tập vào kiểm tra đánh giá thường xuyên Ngoài những bài kiểm tra định kì, học sinh cần phải được đánh giá một cách thường xuyên, khách quan thông qua nhiều hình thức khác nhau. Giáo viên có thể sử dụng PHT vào kiểm tra đánh giá thường xuyên để kiểm tra mức độ nắm bài, hiểu bài, vận dụng và cảm thụ của học sinh. * Ví dụ: Trước khi đi vào hoạt động Viết: Tập làm một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ, giáo viên kiểm tra mức độ nắm những tri thức về thể thơ năm chữ (bốn chữ) của học sinh bằng PHT và yêu cầu học sinh hoàn thiện trong thời gian 7 phút. Sau đó giáo viên chiếu kết quả kết hợp phiếu đánh giá. Học sinh đổi chéo để đánh giá PHT của bạn dựa vào các tiêu chí đã cho trong thời gian 3 phút. Giáo viên thu PHT để kiểm tra việc chấm điểm của học sinh. PHẦN II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 1. Đối với học sinh Học sinh tiếp thu bài học, thực hiện nhiệm vụ tích cực, trách nhiệm, chủ động; không ỷ lại, chờ đợi theo lối thầy giảng trò chép như lâu nay. Tiết học trở nên sôi nổi, học sinh hứng thú, sáng tạo, tích cực. Các em không còn cảm thấy khó khăn khi soạn bài ở nhà, hay thực hiện nhiệm vụ trên lớp. Thay vào đó học sinh lại rất tự tin, có ý thức tự giác và thật sự yêu thích bộ môn Ngữ văn. Học sinh được trau dồi năng lực tư duy, giao tiếp, hợp tác, tự chủ. Trong giờ học, HS chủ động, tích cực, nhanh nhẹn, tăng cường khả năng hợp tác nhóm, làm việc có sự gắn kết cao. Tương tác giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh tốt hơn, không khí lớp học được duy trì mức độ sáng tạo, chú ý cao. 2. Đối với giáo viên Sử dụng PHT trong giảng dạy Ngữ văn 7 đã giúp giáo viên sẽ hạn chế được cách dạy học truyền thụ một chiều, tiết kiệm được thời gian nhưng hiệu quả cao, học sinh sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo. Và quan trọng hơn, giáo viên rèn luyện cho học sinh thêm nhiều kĩ năng mềm. Từ đó giúp các em phát triển toàn diện cả năng lực và phẩm chất. Giải pháp đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Kết quả khảo sát đánh giá đạt được như sau: Sau khi áp dụng những biện pháp như đã nêu ở trên, cho đến thời điểm này HS đã có sự chuyển biến khá tốt. Kết quả khảo sát và học lực lớp 7a, 7b vào cuối kì I năm học 2023 – 2024 như sau: So sánh kết quả mức độ hứng thú và học lực ở khối 7 năm học 2023-2024 Tổng HS Tiêu chí (Khảo sát và học lực) Khi chưa áp dụng Sau khi áp dụng So sánh Tăng, giảm SL % SL % 67 HS yêu thích, hứng thú học. 26 38.8 49 73.1 Tăng 34.3% HS không yêu thích, không hứng thú học. 41 61.1 18 26.8 Giảm 34.3% Xếp loại khảo sát Tốt 9 13,4 17 25.3 Tăng 11,9 % Khá 30 44,7 38 56,7 Tăng 12 % Đạt 10 14,9 6 8,9 Giảm 6 % Chưa đạt 18 26,8 3 4,4 Giảm 22,4% Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ học sinh yêu thích, hứng thú với môn Ngữ văn tăng hơn so với kết quả khảo sát lớp 7a,7b đầu năm học 2023 – 2024 khi chưa áp dụng giải pháp. XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Lê Đức Hiệp
File đính kèm:
skkn_su_dung_phieu_hoc_tap_de_nang_cao_hieu_qua_trong_day_ho.doc