SKKN Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để tìm hiểu Tiết 47. Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình Ngữ Văn 11)

Văn học là nhân học, từ xưa tới nay trong việc giáo dục con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc lực và hữu hiệu. Bộ môn Ngữ văn đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Người giáo viên là kĩ sư tâm hồn - điều đó rất đúng với các thầy cô dạy văn vì bộ môn dễ tác động nhất đến thế giới nội tâm của con người, bồi đắp kiến thức, kĩ năng lẫn tâm hồn cho học sinh.

Thực tế, số lượng học sinh yêu thích môn Ngữ văn đã giảm sút rất nhiều chất lượng môn Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay chưa cao, bộ môn Ngữ văn chưa thu hút sự yêu thích của các em học sinh. Nhiều bài văn của học sinh khiến người chấm dở khóc dở cười vì những sai sót quá cơ bản như sai chính tả, sai kiến thức, suy diễn theo cảm tính, viết mà không hiểu những gì mình đã viết...ngoài những yếu tố khách quan (xu hướng chọn nghề, năng lực cảm thụ văn chương của học sinh…), thì nguyên nhân phần lớn là do giáo viên dạy học chưa có sức lôi cuốn học sinh, phương pháp dạy học còn cứng nhắc. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy văn, đổi mới việc kiểm tra, đánh giá học sinh là điều cần thiết.

Chất lượng giảng dạy và học tập môn Ngữ văn do nhiều yếu tố quyết định, chi phối: chương trình, sách giáo khoa, giáo án, phương pháp giảng dạy của thầy, ý thức, thái độ học tập của trò. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trò then chốt. Có thể khẳng định, đổi mới phương pháp giảng dạy đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Cần khôi phục động lực học tập, khơi dậy niếm say mê, tình yêu văn học của học sinh bằng những giờ dạy thực sự hấp dẫn, lôi cuốn. Cần tiến hành thi cử nghiêm túc, đánh giá chính xác, khách quan năng lực học tập thực sự của học sinh đối với môn học này để có những điều chỉnh kịp thời.

Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới giáo dục, được chính thức từ Đại hội VI của Đảng (12/1986). Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học chỉ thực sự bắt đầu kể từ Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII với yêu cầu “Tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục”. Nội dung cốt lõi đó đã được các văn kiện Đảng tiếp theo nhấn mạnh và quán triệt trong thực tiễn giáo dục và dạy học. Trong suốt những năm qua, đổi mới trong dạy học còn gặp nhiều khó khăn do chương trình bất cập, nội dung và phương pháp dạy học còn lạc hậu…, nên tại Báo cáo Chính trị của Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: cần đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, một nhiệm vụ rất lớn lao cho ngành giáo dục nước ta. Việc đổi mới này nhằm mục đích phát huy mọi năng lực hiện có của người học, phát huy tính độc lập và sáng tạo trong học tập cũng như làm việc ngoài thực tế.

docx 24 trang Trang Lê 01/04/2025 210
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để tìm hiểu Tiết 47. Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình Ngữ Văn 11)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để tìm hiểu Tiết 47. Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình Ngữ Văn 11)

SKKN Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để tìm hiểu Tiết 47. Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình Ngữ Văn 11)
- Bước 1: 
+ kĩ thuật 3 lần 3 (dành cho các nhóm trình bày 3 lời khen, 3 góp ý, 3 đề xuất).
- Bước 2 : 
Bản tin (SGK)
- Từ 29- 31/3/2007, tại Hà Nội, TW Đoàn TNCS.HCM sẽ tổ chức tuyên dương và trao phần thưởng cho các thủ khoa năm 2006.
- Năm 2006, cả nước có 122 thủ khoa trong đó có 98 thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh ĐH và đạt HCV trong các kỳ thi Olympic quốc tế và 24 thủ khoa tốt nghiệp ĐH.
- Sau lễ tôn vinh, 50 người đại diện cho 122 thủ khoa sẽ tham gia các hoạt động văn hóa tại Hà Nội và gặp gỡ một số lãnh đạo chính phủ và giao lưu với thanh niên, sinh viên thủ đô.
Bước 3: GV chuẩn kiến thức
- GV chốt Nội dung bản tin: 
+ Thời gian
+ Địa điểm
+ Sự kiện
à Một bản tin cần có thời gian, địa điểm, sự kiện chính xác nhằm cung cấp những kiến thức những tin tức mới cho người đọc. 
- Thao tác 3
+ Nhóm 2: Chuẩn bị Phóng sự Chiếc vòng tử tế- chiến dịch lan tỏ những hành động đẹp
- Bước 1
+ Phóng sự (SGK) Cung cấp cho người đọc những thông tin mới, chính xác: Cà Roong- Noong Ma là nơi xóa nhà tạm cho đồng bào dân tộc.
- Bước 2
Học sinh lên bảng trình chiếu thuyết trình trao đổi thảo luận
Bước 3: GV chuẩn kiến thức
+ Cung cấp cho người đọc những thông tin mới, chính xác
+ Tường thuật chi tiết sự kiện và miêu tả bằng hình ảnh để cung cấp cho người đọc một cái nhìn đầy đủ và hấp dẫn.
+ Dung lượng thường dài hơn bản tin.
- Thao tác 4
+ Nhóm 3: Chuẩn bị tiểu phẩm (học sinh tự đóng quay clip)
- Bước 1
+ Học sinh lên bảng trình chiếu thuyết trình trao đổi thảo luận
- Bước 2
+ Tiểu phẩm(sgk)
- Nội dung: Cách giải quyết vấn đề xây nhà trái phép bằng cách chạy chọt, đút lót, hối lộ.
- Giọng văn thân mật, dân giã, thường có sắc thái mỉa mai, châm biếm nhưng hàm chứa một chính kiến về thời cuộc.
Bước 3: GV chuẩn kiến thức
* Hoạt động 2:
- Thao tác 1
+ Nhóm 4: Sưu tầm các thể loại văn bản báo chí dưới dạng viết(báo in, báo mạng, tranh ảnh)
- Thao tác 2
+ Nhóm 5: Sưu tầm các thể loại văn bản báo chí dưới dạng báo nói (báo phát thanh, báo hình) có nội dung phê phán lối sống
- Thao tác 3: GV chuẩn kiến thức và cho học sinh ghi
- GV chia lớp 4 nhóm
+ Nhóm 1: Viết bản tin về đề tài trật tự an toàn giao thông.
- Nhóm 2: Viết bản tin về vấn đề học đường.
- Nhóm 3:Viết quảng cáo về rau sạch.
- Nhóm 4: Viết quảng cáo về thực phẩm sạch
I. Ngôn ngữ báo chí
a. Bản tin
b. Phóng sự
c. Tiểu phẩm
2. Nhận xét chung về văn bản báo chí và ngôn ngữ báo chí
a. Văn bản báo chí
+ Phân loại báo chí theo phương tiện: báo viết, báo nói, báo điện tử.
+ Phân loại theo định kỳ xuất bản: báo hàng ngày (nhật báo), báo hàng tuần (tuần báo), báo hàng tháng (nguyệt báo, nguyệt san).
+ Phân loại theo lĩnh vực hoạt động xã hội: Báo Văn nghệ, báo Khoa học, báo Pháp luật, báo Thương mại, báo Giáo dục Thời đại...
+ Phân loại theo đối tượng độc giả: báo Nhi đồng, báo Tiền phong, báo Thanh niên, báo Phụ nữ, báo Lao động...
b. Ngôn ngữ báo chí
- Là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
- Tồn tại ở 2 dạng chính: Báo viết và báo nói.
- Ngoài ra còn: Báo hình, báo điện tử.
- Không bị giới hạn ở một lĩnh vực nào đó.
- Mỗi thể loại có yêu cầu riêng về sử dụng ngôn ngữ: ngôn ngữ bản tin, ngôn ngữ phóng sự, ngôn ngữ tiểu phẩm.
à Ngôn ngữ báo chí có một chức năng chung là cung cấp tin tức thời sự, phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng. Đồng thời nêu lên quan điểm chính kiến của tờ báo, nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
* Ghi nhớ (Tr. 131)
3. Luyện tập
- Phương pháp vấn đáp, thuyết trình
- Thảo luận, kỹ thuật 3X3
- Phương tiện: Máy chiếu, máy tính
- Phương pháp nhóm
- Phương pháp vấn đáp, thuyết trình
- Thảo luận, kỹ thuật 3X3
- Phương tiện: Máy chiếu, máy tính
- Phương pháp nhóm
- Phương pháp vấn đáp, thuyết trình
- Phương pháp vấn đáp, thuyết trình
- Thảo luận, kỹ thuật 3X3
- Phương tiện: Máy chiếu, máy tính
- Phương pháp nhóm
Phương pháp vấn đáp, thuyết trình
- Phương pháp vấn đáp, thuyết trình
- Thảo luận, kỹ thuật 3X3
- Phương tiện: Máy chiếu, máy tính
- Phương pháp nhóm
- Năng lực tự hạo
- Năng lực hợp tác
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Phẩm chất : Biết phê phán lên án những hành động sai trái vô cảm trong cuộc sống. Sẵn sàng làm những việc tốt, tử tế, giúp đỡ người khác.
III. Hoạt động luyện tập:
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập nâng cao
 1. Hãy trình bày những đặc điểm chung và cách sử dụng phương tiện ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ báo chí.
2. Phân tích cách sử dụng phương tiện ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ báo chí được thể hiện trên trang nhất của một tờ báo mà anh (chị) đọc hằng ngày.
3. Đặt tên (đầu đề) cho tin ngắn sau đây :
       Ngày 29 – 5 – 2005, tại Công viên nước Hồ Tây, Công ti sữa Vinamilk phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức sân chơi Cánh diều ước mơ dành cho thiếu nhi và lễ trao học bổng Vinamilk — ươm mầm tài năng trẻ Việt Nam 2005. Đây là quỹ học bổng hằng năm do Công ti Vinamilk tài trợ, dành riêng cho học sinh tiểu học có thành tích xuất sắc trong các lĩnh vực văn hoá, thể thao, nghệ thuật và học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học tập. Năm 2005 này, Vinamilk dành 1020000000 đồng tặng 2 040 học sinh của 42 tỉnh, thành. Mỗi suất học bổng trị giá 500 000 đồng. Lễ trao học bổng được truyền hình trực tiếp trên sóng VTV1, vào lúc 20 giờ.
(Theo báo Tiền phong, ngày 29 – 5 – 2005)   
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập
1. Đọc kĩ và ghi nhớ những đặc điểm chung và cách sử dụng phương tiện ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ báo chí được trình bày trong sách giáo khoa.
2. Để làm bài tập này, cần chú ý hai điểm :
      a) Trang nhất của một tờ báo hiện nay thường có hai chức năng. Một là đăng những bài, thường là bản tin, được xem là quan trọng nhất. Hai là giới thiệu những bài chính ở các trang sau, gồm tên bài và có thể thêm phần tóm tắt nội dung (thậm chí có tờ báo dành trọn trang nhất cho chức năng này).
      b) Trang nhất là bộ mặt của tờ báo, có nhiệm vụ thu hút người đọc đến với tờ báo, được trình bày một cách “bắt mắt”, thường kèm theo ảnh, với cỡ chữ, kiểu chữ đẹp, thích hợp.
      Từ hai nhận xét tổng quát trên, học sinh thực hiện tiếp nhiệm vụ do bài tập nêu ra.
      3. Có thể đặt những tên (đầu đề) khác nhau. Điều quan trọng là đầu đề phải mang nội dung cốt lõi của bản tin. Chẳng hạn :
      − Hơn một tỉ đồng tặng học sinh tiểu học.
      − Trao học bổng “Vinamilk – ươm mầm tài năng trẻ Việt Nam 2005”.



IV. Hoạt động vận dụng và mở rộng kiến thức.
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết được một số bài báo
Chia lớp 4 nhóm 
+ Nhóm 1: Viết bản tin về ô nhiễm môi trường nước.
+ Nhóm 1: Viết bản tin về dự báo thời tiết.
- Nhóm 2: Viết phóng sự về vấn đề lũ quét xảy ra ở Hà Giang.
- Nhóm 3:Viết một tiểu phẩm và diễn



IV. Củng cố: Khắc sâu văn bản và ngôn ngữ báo chí bằng (Sơ đồ tư duy)
V. HDVN- Làm tiếp các bài tập trong SGK.
- Chuẩn bị: Một số thể loại văn học: Thơ, truyện.
- Học sinh tìm hiểu tư liệu, SGK, tài liệu tham khảo ở nhà, trước khi học bài mới, thông qua hình thức hoạt động nhóm.
- Học sinh tự lĩnh hội kiến thức ở trên lớp dưới sự hướng dẫn, kiểm soát trực tiếp của giáo viên.
- Học sinh tự củng cố, kiến thức và thực hành bài tập ở nhà không có sự kiểm soát trực tiếp của giáo viên.
Như vậy, trong quá trình tổ chức cho học sinh khai thác nội dung của bài:
Tiết 47 Phong cách ngôn ngữ báo chí giáo viên đã áp dụng một số phương pháp dạy tích cực một cách linh hoạt, đa dạng, nhằm phát triển năng lực học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả giờ học Ngữ Văn ở trường phổ thông.
7.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Sáng kiến được áp dụng trong phạm vi Tiết 47 Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình cơ bản Ngữ Văn 11. Tuy nhiên, các biện pháp, ý tưởng đưa ra trong sáng kiến có thể áp dụng trong nhiều bài học khác nhau của bộ môn Ngữ Văn ở trường THPT. Sáng kiến này có khả năng áp dụng cao từ phía học sinh và giáo viên:
- Về phía học sinh:
+ Học sinh sẽ dành thời gian đọc, tiếp cận sách giáo khoa, tư liệu lịch sử nhiều hơn. Buộc các em phải tìm tòi, suy nghĩ để chuẩn bị bài có hiệu quả.
+ Tạo cho học sinh tính nhạy bén, năng động, sáng tạo và hứng thú với giờ học lịch sử.
+ Mặt khác, hạn chế tối đa thời gian “chết” đối với học sinh, không để cho các em có cơ hội tham gia vào các hoạt động vô bổ ngoài giờ học.
- Về phía giáo viên :
+ Thúc đẩy giáo viên đầu tư nhiều hơn trong công tác chuẩn bị, thiết kế giáo án cho phù hợp với tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm”.
+ Làm tốt công tác đầu tư cho tiết dạy sẽ giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong khâu tổ chức, hướng dẫn học sinh tự khai thác và chiếm lĩnh kiến thức ; mặt khác sẽ tránh được sự lúng túng bị động khi học sinh chất vấn về những thông tin liên quan. 
+ Áp dụng có hiệu quả phương pháp dạy học tích cực thì khi lên lớp giáo viên sẽ đỡ vất vả vì không phải làm việc nhiều.
Tuy nhiên, việc vận dụng các phương pháp dạy học đạt hiệu quả cao hay thấp còn tùy thuộc vào tài năng sư phạm và khả năng sáng tạo của giáo viên trong việc lên lớp và trong việc khai thác các phương tiện dạy học.
8. Những thông tin cần được bảo mật: không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm một cách có hiệu quả, cần có những điều kiện để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, đây cũng chính là vấn đề cốt lõi để biến lý thuyết thành hiện thực.
Thứ nhất, về vấn đề thời gian: việc áp dụng sáng kiến không thể đòi hỏi phải có kết quả ngay được, cần phải có một thời gian áp dụng, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm những gì đã làm được và chưa làm được, từ đó có những giải pháp riêng phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Thứ hai, về phía giáo viên: người thầy phải là người tổ chức, chỉ đạo, điều khiển các hoạt động học tập tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh. Người thầy sẽ không còn là nguồn phát thông tin duy nhất, không phải là người hoạt động chủ yếu ở trên lớp như trước đây mà sẽ là người tổ chức và điều khiển quá trình học tập của học sinh, đồng thời biến ý đồ dạy của mình thành nhiệm vụ học tập tự nguyện, tự giác của trò và chuyển giao cho trò những tình huống để trò hoạt động và thích nghi.
Thứ ba, về phía học sinh:
- Học sinh phải chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo trong hoạt động để kiến tạo kiến thức. Người học phải thực sự đạt được không chỉ những tri thức và kĩ năng của bộ môn mà quan trọng hơn thế là tiếp thu được cách học, cách tự học.
- Học sinh cần có những động lực học tập mạnh mẽ. Đó chính là động cơ, hứng thú, niềm lạc quan của học sinh trong quá trình học tập. Những nhân tố này chính là những động cơ thúc đẩy mạnh mẽ học sinh học tập tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo trong hoạt động độc lập hoặc hợp tác.
- Học sinh cần phải có khả năng tự đánh giá kết quả học tập của mình để trên cơ sở đó bản thân các em có thể điều chỉnh các hoạt động của mình theo mục tiêu đã định.
Thứ tư, về cơ sở vật chất: nhà trường cần phải xây dựng các phòng học bộ môn riêng với đầy đủ các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc giảng dạy. Đây chính là một điều kiện quan trọng để giáo viên thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến 
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Đa số học sinh của lớp được áp dụng đều có thái độ hứng thú, tích cực hơn trong công tác chuẩn bị bài mới cũng như sự tích cực tham gia vào tiết học.
- Phần lớn các em hiểu và nắm được nội dung cơ bản của bài học.
- Áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào Tiết 47 Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình cơ bản Ngữ Văn 11) đã góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của giờ học Lịch sử ở trường THPT Vĩnh Tường.
*Dưới đây là kết quả tổng hợp từ phiếu kiểm tra, thăm dò bằng hình thức trắc nghiệm:
Lớp
Sĩ số
Học sinh hứng thú
Học sinh hiểu bài
SL
%
SL
%
11A3
32
25
78,1
32

100%
11A6
37
32
86,5
37
100%
*Kết quả  kiểm tra đánh giá sau các bài học:
Lớp
Sĩ số
Điểm trung bình
Giỏi
Khá
TB
Yếu

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11A3
32
5
15,6
25
78
2
6,3
0

11A6
37
7
18,9
27
63
3
8,1
0

Tổng cộng
69
12

52

5

0

Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu tất yếu. Mục tiêu cuối cùng của việc đổi mới chính là tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS, biến hoạt động nhận thức của người học từ thụ động chuyển sang chủ động và linh hoạt. Chính vì thế, việc áp dụng những phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực là vô cùng cần thiết trong quá trình giảng dạy nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy, phát huy năng lực tự học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho học sinh, từ đó, các em mới tự tin và tự học, mới xem việc tự học là có ý nghĩa.
Qua kết quả thống kê cụ thể đã trình bày ở trên, bản thân tôi nhận thấy đề tài có tính khả thi và có khả năng triển khai rộng rãi với nhiều đối tượng và nhiều khối lớp trong bậc THPT. 
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
Mở rộng quá trình thực nghiệm tôi đã thu được kết quả như sau :
Sáng kiến góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn nói riêng. Sáng kiến được triển khai tới các đồng nghiệp, trước hết là giáo viên bộ môn Ngữ văn ở trường THPT Vĩnh Tường, được đồng nghiệp áp dụng và đã công nhận tính mới và lợi ích đem lại từ sáng kiến và thu được kết quả tốt : Học sinh được làm việc, phát huy tính tích cực của HS, lớp học tiến bộ hơn về đánh giá chất lượng hai mặt của HS. HS phát huy được năng lực sử dụng ngôn ngữ, biết đấu tranh chống thói hư tật xấu, cổ vũ khuyến khích cái thiện, bồi dưỡng tinh thần nhân ái
Mặt khác, việc sử dụng những PP, kĩ thuật dạy học. HS đã phát huy được các năng lực sau : năng lực hợp tác nhóm, năng lực tự giả quyết vấn đề, năng lực tự họcVới những năng lực này, tri thức của các em không chỉ dừng lại trên trang giấy mà sẽ hình thành cho các em thái độ, kĩ năng, phẩm chất giúp các em vận dụng tốt vào đời sống trở thành những công dân hiện đại, năng động sáng tạo, làm chủ tương lai, làm chủ chính mình.
11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
STT
Họ và tên
Địa chỉ
Phạm vi/ Lĩnh vực sáng kiến
11
Nguyễn Thị Hương Xa
Giáo viên trường THPT Vĩnh Tường
Giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 11, Tiết 47 Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình cơ bản Ngữ Văn 11)
22
Lê Mai Anh
Giáo viên trường THPT Vĩnh Tường
Giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 11, Tiết 47 Phong cách ngôn ngữ báo chí (Chương trình cơ bản Ngữ Văn 11)

Vĩnh Tường, ngày 12 tháng 02 năm 2018
Thủ trưởng đơn vị
Nguyễn Thị Tuyết Oanh
Vĩnh Tường, ngày 12 tháng 02 năm 2018
 Tác giả sáng kiến
 Nguyễn Thị Phượng

File đính kèm:

  • docxskkn_su_dung_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_de_tim_hieu_tiet_4.docx