SKKN Sử dụng phương pháp nghiên cứu, đàm thoại, thuyết trình để phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ Văn qua tiết 90 “Chiếu dời đô”(Ngữ văn 8-Tập 2)
Hiện nay việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở cấp THCS nói chung và trường THCS Phạm Hồng Thái nói riêng đang được các cấp quản lí và giáo viên coi là khâu then chốt, tạo bước chuyển đột phá nhằm nâng cao chất lượng từng bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Đại đa số giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trường đã, đang áp dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống và mới như: đàm thoại, thuyết trình, bình giảng, nghiên cứu, hoạt động nhóm, bàn tay nặn bột, bản đồ tư duy, kĩ thuật mảnh ghép, khăn phủ bàn để đem lại hiệu quả.
Nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa có nhận thức đầy đủ về đổi mới phương pháp; vẫn bảo thủ, chủ yếu sử dụng hình thức hỏi - đáp; áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới còn lúng túng, nhiều khi rất hình thức, gò ép. Khả năng tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo của một bộ phận giáo viên khá hạn chế, không dám nghĩ, dám làm.
Bản thân tôi được phân công về giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại trường THCS Phạm Hồng Thái từ năm 2001. Được giảng dạy cả chương trình Ngữ văn chỉnh lí (1995) và Chương trình Ngữ văn thay sách Giáo khoa từ năm 2001, được áp dụng nhiều phương pháp dạy học, cả phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại( gọi là phương pháp mới) thì thấy rằng mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng. Vì thế phải thường xuyên tìm tòi, sáng tạo và tìm ra cách vận dụng các phương pháp sao cho tối ưu nhất, đem lại hiệu quả dạy học Ngữ văn cao nhất.
Để góp thêm một tiếng nói trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS Phạm Hồng Thái, xã Ea pô, huyện Cư Jút, tỉnh Đắc Nông, tôi xin được mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình về việc “Sử dụng phương pháp nghiên cứu, đàm thoại, thuyết trình để phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn qua tiết 90: “Chiếu dời đô”(Ngữ văn 8-Tập 2)”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Sử dụng phương pháp nghiên cứu, đàm thoại, thuyết trình để phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ Văn qua tiết 90 “Chiếu dời đô”(Ngữ văn 8-Tập 2)
ã tiếp thu được. Đàm thoại cũng là phương pháp để giáo viên chúng ta có thể kiểm tra, đánh giá học sinh và giúp các em tự kiểm tra, tự đánh giá năng lực lĩnh hội tri thức của bản thân. Sử dụng tốt phương pháp này sẽ đem lại hiệu quả quan trọng trong dạy học. Đó là, nó giúp giáo viên điều khiển hiệu quả hoạt động tư duy, kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức ở học sinh; nó bồi dưỡng năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học một cách chính xác, đầy đủ súc tích hơn; đồng thời giáo viên cũng thu được những phản hồi từ các em học sinh một cách nhanh nhất, kịp thời để điều chỉnh các hoạt động của mình và cả học sinh. Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học bằng lời nói sinh động của người dạy để giới thiệu một nội dung kiến thức mới hoặc khái quát những kiến thức mà học sinh đã thu lượm được một cách có hệ thống. Phương pháp này cho phép giáo viên truyền dạt những nội dung lí thuyết khá lớn mà các em học sinh không dễ dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc. Nó giúp học sinh nắm được hình mẫu về cách tư duy logic, cách đặt và giải quyết vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những vấn đề khoa học một cách chính xác, rõ ràng, súc tích thông qua cách trình bày của giáo viên. Giáo viên thuyết trình kèm các yếu tố ngôn ngữ cơ thể sẽ tác động mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm các em. Thuyết trình của giáo viên cũng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích cực tư duy của học sinh vì ghi nhớ được nội dung bài học. Bằng thuyết trình, giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng tri thức khá lớn cho nhiều học sinh trong cùng một lúc. Hai phương pháp đàm thoại và thuyết trình vốn là phương pháp mà người giáo viên là chủ thể sử dụng. Trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi chuyển thành chủ thể chính là học sinh. Có nghĩa là học sinh sẽ là người sử dụng nó trong qúa học tập. 2.4.2. Quá trình tiến hành các biện pháp Để thực hiện tốt đề tài này bản thân tôi phải thực hiện các nhiệm vụ dưới đây - Năm học 2014-2015, quan sát học sinh, tìm hiểu môi trường giáo dục, nắm thông tin mọi mặt về học sinh. Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học Ngữ văn”, nghiên cứu tài liệu gây hứng thú về dạy học Ngữ văn, nghiên cứu tài liệu: Tâm lí học, SGK, SGV Ngữ văn lớp 8; kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh; nghiên cứu lí luận hình thành phương pháp, định hình các biện pháp tiến hành; dự giờ đồng nghiệp, thực nghiệm tiết dạy, trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy. - Năm học 2015-2016, tiếp tục nghiên cứu lí luận, tổ chức dạy học rút kinh nghiệm. Năm học 2016-2017, tổ chức dạy học bài “Chiếu dời đô” để minh họa cho đề tài nghiên cứu, đánh giá rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm. 2.4.3. Cách thức tiến hành các biện pháp Để phát triển các năng lực cơ bản cho học sinh trong một bài dạy học trên, tôi phải sử dụng, kết hợp thật hài hòa, tinh tế, linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học, ứng dụng máy chiếu, tích hợp liên môn Âm nhạc, Mĩ thuật, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân,... Tức là tôi luôn đặt học sinh vào trong các tình huống có vần đề, đòi hỏi các em phải tích cực suy nghĩ, đàm thoại với nhau để giải quyết nhưng không khiến các em cảm thấy nặng nề. Như thế cả những em lâu nay “ngồi nhìn tiếng trống, ngồi chờ hết tiết” cũng tích cực tham gia vào bài học. Các em được khuyến khích mạnh dạn nói những điều mình muốn nói, dù có thể chưa lưu loát, chính xác bằng các bạn khác nhưng đã làm cho các em hào hứng hơn trong mỗi tiết học. Để đạt được mục tiêu bài dạy, phát triển tối đa các năng lực của học sinh, ngoài việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật đặc trưng của môn Ngữ văn, của tiết dạy học văn bản, tôi đã áp dụng một vài phương pháp mới như: phương pháp nghiên cứu của học sinh, phương pháp đàm thoại (dùng hệ thống câu hỏi để trao đổi, hỏi – đáp, chất vấn giữa học sinh với học sinh), đặc biệt mạnh dạn sử dụng phương pháp thuyết trình của cá nhân học sinh trước tập thể lớp khi tìm hiểu văn bản. Đây là việc làm hoàn toàn mới từ trước đến nay bởi vì phương pháp đàm thoại, thuyết trình thường chỉ dùng cho giáo viên trong quá trình tìm hiểu, phân tích văn bản. Đàm thoại, thuyết trình và tự nghiên cứu vốn là những phương pháp truyền thống của thầy nay chuyển thành phương pháp học tập của trò nhằm phát triển các năng lực, phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học văn bản nói riêng và môn Ngữ văn nói chung. Sau đây, tôi xin được mô tả cách thức tiến hành các phương pháp trên trong bài dạy: Tiết 90- “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn (Ngữ văn 8 - Tập 2) bằng bảng mô tả dưới đây: CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH GIÁO VIÊN HỌC SINH 1. Chuẩn bị - Đọc kĩ các tư liệu, tài liệu quan trọng nhất liên quan đến bài dạy. - Sưu tầm tranh ảnh, phim tư liệu, bài hát phục vụ cho bài dạy - Vạch ra các phương pháp, kĩ thuật dạy học sẽ áp dụng trong từng hoạt động trên lớp. - Soạn giáo án điện tử, ứng dụng CNTT cho phù hợp với nội dung bài dạy và thời gian cho phép. - Giao việc cụ thể cho học trò và kiểm tra sự chuẩn bị theo đúng qui định về dung lượng, thời gian, độ chính xác của các thông tin. *Dùng phương pháp tự nghiên cứu: - Soạn bài theo Vở bài tập. - Sưu tầm các thông tin cơ bản về tiểu sử, sự nghiệp, những đóng góp quan trọng của vua Lý Công Uẩn, kết hợp tranh ảnh , (lưu vào Usb để thuyết trình trên lớp, thời gian chỉ từ 2-3 phút). - Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời, đặc điểm thể loại, bố cục của văn bản, kết hợp hình ảnh minh họa (cũng lưu vào Usb và thuyết trình trước lớp khoảng 3 phút). + Tìm hiểu lịch sử các tên gọi của thủ đô Hà Nội. - Tạo sẵn những câu hỏi và ý trả lời để bàn luận, đối đáp với nhau trên lớp khi tìm hiểu các phần của bài học. 2. Tạo tâm thế - Dùng sơ đồ Grap để giới thiệu các thể loại nghị luận cổ (chiếu, hịch, cáo, tấu) rồi dẫn vào bài học: Chiếu dời đô. - Nghe và lĩnh hội, hình thành hứng thú tò mò muốn khám phá bài học 3.Tìm hiểu chung (tác giả, tác phẩm) - Quan sát, đánh giá phần thuyết trình của học sinh và chốt kiến thức cơ bản. *Vận dụng phương pháp thuyết trình (giới thiệu): - Học sinh cử đại diện lên thuyết trình(2 em) kết hợp sử dụng màn hình điện tử để minh họa. 4. Đọc - Dùng clip đọc diễn cảm để minh họa. - Tập trung lắng nghe rồi đọc lại văn bản. 5.Tìm hiểu phần 1của văn bản: Bàn về lý do phải dời đô. - Giáo viên chia lớp làm 2 nhóm lớn, cử nhóm trưởng để điều hành các bạn trong nhóm thực hiện việc trao đổi, chất vấn nhau qua hệ thống các câu hỏi mà các em đã chuẩn bị. - Theo dõi, nhận xét, đánh giá và khái quát thành kiến thức cơ bản. *Vận dụng phương pháp đàm thoại, chất vấn: - Hai nhóm sẽ thực hiện luân phiên việc hỏi-đáp, trao đổi, chất vấn nhau qua hệ thống các câu hỏi(có thể sử dụng Sgk, Vở bài tập) xoay quanh nội dung, nghệ thuật của phần 1 theo định hướng của giáo viên. 6. Tìm hiểu phần 2 của văn bản: Lý do chọn Đại La làm kinh đô mới. - Dùng kĩ thuật khăn phủ bàn, tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm theo bàn(4Hs/bàn) trong thời gian 5 phút. - Nhận xét, đánh giá phần trình bày của học sinh: phong cách, ngôn ngữ, kiến thức. - Giáo viên nhận xét và cho điểm nếu học sinh làm tốt. *Dùng phương pháp hoạt động nhóm (kĩ thuật khăn phủ bàn) kết hợp phương pháp thuyết trình: - Học sinh hoạt động nhóm và một nhóm cử đại diện lên thuyết trình. - Các nhóm khác sẽ tham gia góp ý cho phần trình bày của nhóm bạn. - Một em sẽ lên thuyết trình các tên gọi khác nhau của thủ đô Hà Nội kể từ năm 1010. 7. Đánh giá, tổng kết. - Dùng clip (3 phút) có bài hát “Hà Nội niềm tin và hi vọng” kết hợp minh họa hình ảnh thủ đô qua các thời kì lịch sử, qua các sự kiện trọng đại. - Yêu cầu học sinh đánh giá về quyết định dời đô và công lao của vua Lý Công Uẩn. - Giáo viên yêu cầu học sinh khái quát nội dung, ý nghĩa và những đặc sắc nghệ thuật của văn bản. - Học sinh chú ý lắng nghe, xem hình ảnh sau đó đánh giá về quyết định dời đô và công lao của vua Lý Công Uẩn. - Khái quát nội dung, ý nghĩa và những đặc sắc nghệ thuật của văn bản. 8. Luyện tập, tổng kết bài học và hướng dẫn tự học - Giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm văn bản. - Khái quát bài học bằng câu hỏi và sơ đồ tư duy - Hướng dẫn học bài và chuẩn bị bài mới - Học sinh đọc diễn cảm văn bản. - Trả lời câu hỏi để tổng kết bài học - Nghe hướng dẫn để thực hiện *Một vài hình ảnh minh họa về tiến trình tiết dạy học bài “Chiếu dời đô” mà tôi đã áp dụng theo phương pháp nói trên Học sinh thuyết trình về tác giả Kiểm tra miệng Các em hoạt động nhóm Các em hoạt động nhóm Nghiên cứu đặt câu hỏi cho nhóm khác Quan sát, gợi mở các em đàm thoại Đại diện các nhóm thuyết trình Đại diện các nhóm thuyết trình Tổng kết bài học Tổng kết bài học 2.5. Kết quả đạt được a. Với giáo viên Sau khi kết thúc giờ dạy theo phương pháp nói trên, tự bản thân tôi thấy giờ dạy thành công, đạt được các mục tiêu cơ bản đã đề ra. Khi tôi áp dụng phương pháp truyền thống, không ứng dụng máy chiếu đối với hai lớp 8B,8E thì thấy rằng giờ học không sinh động, các em học còn rời rạc, chưa hứng thú. Đó là khi tôi phát ra một yêu cầu bằng câu hỏi thì chỉ có vài 3 em giơ tay trả lời và câu trả lời đạt độ chính xác không cao (60-70%), kĩ năng diễn đạt nội dung trả lời cũng còn thấp. Còn với hai lớp 8A,8D, tôi sử dụng phương pháp của đề tài sáng kiến kinh nghiệm này thấy rằng giờ dạy học diễn ra sôi nổi hẳn, các em rất hứng thú, rất tích cực trước mỗi yêu cầu giáo viên đưa ra. Các em hoạt động nhóm hiệu quả, vì ai cũng được bày tỏ những hiểu biết suy nghĩ, đánh giá từ sự chuẩn bị bài theo hướng dẫn của thầy. Cùng một nội dung vấn đề của bài học, nhóm này trao đổi, cử đại diện lên thuyết trình rồi lại đặt câu hỏi cho các nhóm khác trao đổi, phản hồi. Khi đó tôi chỉ quan sát theo dõi, định hướng gợi mở thêm cho các nhóm suy nghĩ tiếp tục đàm thoại với nhau tìm ra hết các khía cạnh của vấn đề và tự ghi nhớ lấy một cách tự nhiên. Áp dụng phương pháp này học sinh xung phong trình bày nhiều hơn và mức độ chính xác của câu trả lời cũng cao hơn (80% trở lên). Giờ dạy đã được các đồng chí, đồng nghiệp đánh giá là hiệu quả, dễ áp dụng và có thể áp dụng cho nhiều bài trong ngữ văn THCS. b. Với học sinh Sau khi vận dụng các phương pháp, kĩ thuật trên vào việc giảng dạy tôi nhận thấy rằng các em tiếp nhận và xử lí các vấn đề đặt ra một cách khá tự tin, chủ động, hứng thú, tích cực với giờ học, nắm vững kiến thức và vận dụng linh hoạt, rèn được các kĩ năng cơ bản, được khẳng định khả năng của riêng bản thân mình, được chan hòa cùng tập thể, vừa học, vừa chơi, rất phù hợp với độ tuổi học sinh lớp 8. Tôi đã cho học sinh của cả 4 lớp làm bài tập cảm thụ ngắn về giá trị nội dung tư tưởng của văn bản “Chiếu dời đô”. Kết quả cụ thể như sau: - Lớp áp dụng phương pháp truyền thống LỚP SĨ SỐ ĐIỂM GIỎI ĐIỂM KHÁ ĐIỂM TB ĐIỂM DƯỚI 5 8B 33 6/33=18% 8/33= 24% 14/33= 43% 5/33=15% 8E 30 5/30 = 16,6% 7/30= 23,3% 13/30=43,5% 5/30=16,6% - Lớp áp dụng phương pháp mới LỚP SĨ SỐ ĐIỂM GIỎI ĐIỂM KHÁ ĐIỂM TB ĐIỂM DƯỚI 5 8A 33 25/33=75% 7/33= 22% 1/33= 3% 0 8D 31 12/31 = 39% 14/31= 45% 5/31=16% 0 Như vậy kết quả của hai lớp 8A, 8D cao hơn hẳn 8B, 8E : kiến thức chính xác, đủ về lượng và đạt về chất; kĩ năng viết đoạn văn tốt, không em nào sai về hình thức đoạn văn, đa số văn phong khá mạch lạc, trong sáng, tự nhiên; bộc lộ được sự cảm nhận, suy nghĩ riêng của bản thân. Điều này chứng tỏ các em đã được hình thành và phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ, tạo lập văn bản viết, năng lực cảm thụ thẩm mĩ văn học. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận - Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào việc giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học Ngữ văn hiệu quả hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của bài học. - Sử dụng phương pháp nghiên cứu, đàm thoại, thuyết trình kết hợp hoạt động nhóm đã phát triển được các năng lực của học sinh như: tự học, giải quyết tình huống có vấn đề, giao tiếp, hợp tác, phát triển ngôn ngữ nói, cảm thụ thẩm mĩ. Học sinh học tập tích cực, hứng thú, nắm chắc kiến thức; giáo viên nói ít, chỉ là trọng tài hướng dẫn, tổ chức các hoạt động và chốt kiến thức; từ đó làm cho các tiết dạy Ngữ văn trở nên nhẹ nhàng hơn, gần gũi với các em hơn, góp phần làm cho bộ môn Ngữ văn ngày càng được các em yêu thích. - Việc áp dụng các phương pháp trên không hề tốn kém về kinh tế và có những hiệu ứng tích cực về tinh thần, thái độ học tập của học sinh cũng như thay đổi quan niệm của đại bộ phận phụ huynh hiện nay về môn Ngữ văn. - Giờ dạy này trước đây tôi đã thực nghiệm trong năm học 2014-2015 và lần này tôi tiếp tục rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện và tiếp tục thể nghiệm và được các đồng chí đồng nghiệp trong tổ Văn – Sử, trong trường đánh giá là tốt, có hiệu quả, dễ vận dụng. - Phương pháp này có thể áp dụng được thường xuyên không chỉ cho các tiết dạy văn bản mà còn dùng cho cả dạy Tiếng Việt và Tập làm văn từ lớp 6 đến lớp 9 dành cho các đối tượng học sinh ở trường THCS Phạm Hồng Thái chúng tôi. 3.2. Kiến nghị 3.2.2. Yêu cầu với học sinh Thứ nhất, phải có tâm thế, nhận thức đúng đắn về môn học, tiết học. Thứ hai, phải thực hiện nghiêm túc các công việc được giao. Thứ ba, phải chủ động, tích cực khi học bài, khi tham gia các hoạt động. 3.3.3. Với các cấp quản lí Thứ nhất, trang bị đầy đủ các thiết bị, đồ dùng, phương tiện dạy học từ truyền thống đến hiện đại, có chiến lược đầu tư mua thêm máy chiếu hoặc ti vi, trong tương lai sao cho mỗi phòng học có một thiết bị nói trên, tăng cường kết nối mạng để các giáo viên có cơ hội thể hiện năng lực đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đồng thời học sinh có nhiều cơ hội phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu cho mỗi bài học. Thứ hai, phòng học phải đạt chuẩn về ánh sáng, diện tích, bàn ghế. Thứ ba, tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo chuyên môn theo các chuyên đề, không cưỡi ngựa xem hoa. Cần phải chọn lựa một vài phương pháp, kĩ thuật dạy học tốt nhất và tổ chức lên lớp thực nghiệm nhiều lần mới tạo sự bền vững và hiệu quả. Trên đây chỉ là những suy nghĩ của cá nhân tôi về việc“Sử dụng phương pháp nghiên cứu, đàm thoại, thuyết trình để phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn qua tiết 90: “Chiếu dời đô”(Ngữ văn 8-Tập 2)”. Trong sự hiểu biết hạn hẹp của bản thân chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các đồng chí, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn! Ea Pô, ngày 22 tháng 2 năm 2017 XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ NGƯỜI VIẾT Nguyễn Tuấn Trọng DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Công văn số 16/2006/ QĐ- BGĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT. - Công văn số 2718/BGDĐT-GDTrH ngày 27/05/2014 của Bộ giáo dục và đào tạo. - Các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, tập huấn chuyên môn của Phòng Giáo dục-Đào tạo huyện Cư Jút, của Sở giáo dục và đào tạo Đắc Nông năm học 2016 - 2017. - Luật giáo dục 2005. - Nâng cao Ngữ văn 8 - Nxb GD. - Phương pháp dạy học văn - Bộ GD ĐT. - Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1. - Tài liệu chuẩn KT - KN tập 2. - Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 8(Đỗ Ngọc Thống - Nxb GD) - Tăng cường năng lực dạy học của giáo viên, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
File đính kèm:
skkn_su_dung_phuong_phap_nghien_cuu_dam_thoai_thuyet_trinh_d.doc

