SKKN Tạo tính thời sự trong dạy học môn Ngữ Văn Lớp 11 Trung học Phổ thông (Phần đọc hiểu văn bản Văn học)

Văn chương là nguồn suối mát nuôi dưỡng tâm hồn ta ngay từ thuở bé khi còn cắp sách đến trường, cái thuở chỉ biết ngồi tròn xoe mắt đọc theo cô những câu thơ trong bài thơ “Cô giáo em”. Vần thơ du dương nghe mà êm tai làm sao, rồi mỗi đứa tự vẽ trong đầu mình một hình ảnh cô giáo thật xinh, thật đẹp.... Xúc cảm ngây thơ ấy cho thấy rằng ở lứa tuổi tiểu học các em cũng đã biết cảm thấy thú vị, thấy say mê, hấp dẫn, thấy được vẻ đẹp của cảnh vật, nhân vật được kể được tả, thấy được cái mới, cái lạ về nhạc điệu về hình ảnh trong từng tác phẩm văn học. Mỗi một tác phẩm văn học giống như một tòa tháp nhiều tầng, bậc còn ẩn chứa nhiều bí mật. Đến với các tác phẩm văn học, người đọc, người học và người dạy văn như một nhà thám hiểm khát khao chinh phục, kiếm tìm những báu vật còn khuất chìm bên trong thế giới ngôn từ. Tiếp nhận văn học nhìn chung không hề đơn giản, đặc biệt đối với những tác phẩm cần liên hệ thực tiễn cuộc sống, có ý nghĩa thời sự lại càng khó hơn.

Trong xu thế xã hội phát triển , đặc biệt sự phát triển mạnh mẽ của phương tiện internet, giới trẻ rất ít thích đọc sách nói chung, sách văn học nói riêng. Khi cần tìm hiểu một vấn đề gì đã có công cụ google để tìm kiếm, hoặc các sách giải bán phổ biến khắp nơi. Các em học sinh ít tự mình đọc và tìm hiểu về các tác phẩm văn học theo sự nhận thức và rung động của bản thân. Vì vậy, học sinh hiện nay ít có những chiêm nghiệm sâu sắc về những vấn đề nhà văn đặt ra trong tác phẩm văn học. Hơn thế, vốn hiểu biết về xã hội của các em cũng rất non kém. Bên cạnh đó, các em thường ít quan tâm đến những vấn đề xã hội, đặc biệt là các vấn đề văn hóa, giáo dục, chính trị, đạo đức...Vì thế học sinh thường không có hứng thú học văn.

Xuất phát từ tình hình thực tế đó, và căn cứ vào sự đổi mới sách giáo khoa của Bộ giáo dục hiện nay có chú trọng đến tính thời sự trong văn bản văn học, trong quá trình giảng dạy, tôi đã có một vài kinh nghiệm được rút ra cho bản thân. Với những văn bản có tính thời sự, giáo viên có thể bằng sự tìm tòi, hiểu biết của mình hãy hướng học sinh đến những vấn đề nhạy cảm hiện nay. Từ đó giúp giờ học văn bớt nhàm chán, giúp học sinh dần hoàn thiện nhân cách và sống có trách nhiệm hơn với bản thân, xã hội. Đó là những nguyên do cơ bản khiến tôi chọn đề tài: Tạo tính thời sự trong dạy học môn ngữ văn lớp 11 trung học phổ thông phần đọc hiểu văn bản văn học.

docx 29 trang Trang Lê 04/09/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tạo tính thời sự trong dạy học môn Ngữ Văn Lớp 11 Trung học Phổ thông (Phần đọc hiểu văn bản Văn học)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Tạo tính thời sự trong dạy học môn Ngữ Văn Lớp 11 Trung học Phổ thông (Phần đọc hiểu văn bản Văn học)

SKKN Tạo tính thời sự trong dạy học môn Ngữ Văn Lớp 11 Trung học Phổ thông (Phần đọc hiểu văn bản Văn học)
lối sống trong bao một
cách cực đoan như Bê-li-cốp nhưng em nghĩ mỗi người trong chúng ta nên có một chút tư tưởng, suy nghĩ của lối sống trong bao. Chúng ta dè dặt sợ lại xảy ra chuyện gì khi quyết định bắt đầu một công việc nào đó để mà suy nghĩ thật chín chắn, tránh hậu quả khó lường. Chúng ta có ý thức chấp hành những nội quy của tập thể, những quy định của pháp luật, hệ chuẩn mực văn hoá, đạo đức của cộng đồng và tuyên truyền mọi người thực hiện nghiêm túc là điều tốt	
(?) Theo em làm thế nào để thanh trừ lối sống trong bao cực đoan? (GV gợi dẫn: Có ý kiến cho rằng để không phải sống như Bê-li-cốp thì hãy cứ sống tự nhiên, thoải mái theo ý thích của mình, không cần tuân theo bất cứ nội quy, quy định, chuẩn mực gì của cộng đồng xã hội? Ý kiến của em?)
HS có thể có nhiều giải pháp khác nhau nhưng đối với bản thân mỗi cá nhân trong cộng đồng cần phải luôn tự ý thức được mục đích, cách sống của mình, hoà đồng và thống nhất với các hệ chuẩn mực văn hoá, đạo đức của cộng đồng.
GV đưa ra những tình huống giả định để HS thực sự hoà mình vào tác phẩm, rèn luyện kỹ năng sổng, chuẩn bị hành trang bước vào đời.
Ra bài về nhà để HS viết bài luận hoặc sử dụng làm đề kiểm tra 15 phút.
Văn bản “Về luân lí xã hội nước ta ” - Phan Châu Trinh
(?) Từ thực trạng xã hội đương thời “phải ai tai nấy, ai chết mặc ai” đến thực trạng thái độ thờ ơ của nhiều học sinh khi xảy ra các vụ bạo lực học đường hiện nay, giả sử là một học sinh chứng kiến em có đề xuất giải pháp gì? (Viết một đoạn văn nêu đề xuất giải pháp của bản thân).
- HS viết đoạn văn với những đề xuất giải pháp cá nhân xuất phát từ chính suy nghĩ, mong muốn của các em sau khi đã hiểu thực trạng nêu ra trong văn bản và sự trải nghiệm bản thân trước thực tế vấn đề bạo lực học đường đang diễn ra. Học sinh có thể nêu nhiều giải pháp khác nhau song cần trên tinh thần không thể thơ ơ, vô cảm hoặc cổ xúy, lan truyền hành động bạo lực học đường như thực tế. Bởi đó là những biểu hiện của hành vi thiếu đạo đức, thiếu tình người cần lên án.
Văn bản “Người trong bao ” - A.P.Sê-Khốp
(?) Nếu em là một nhà văn, hãy viết lại đoạn kết khác cho truyện ngắn Người trong bao?
HS có quyền tưởng tượng và có những cách kết chuyện khác nhau. Điều quan trọng là những suy nghĩ đó phải được đúc rút ra từ bản thân truyện Người trong bao như một bài học, một quan niệm sống.. .có thể phê phán, có thể đồng tình, có thể biện minh.tuỳ hoàn cảnh, cách cảm nhận của mỗi người.
Việc đưa ra những tình huống giả định sẽ phát huy được trí tưởng tượng, khả năng tư duy và giải quyết tình huống trong thực tế đời sống của các em.
Như vậy, tuỳ từng văn bản, tuỳ đối tượng HS, GV có thể phối kết hợp cả ba hoặc một trong ba cách thức trên để tạo tính thời sự khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các văn bản. Lưu ý cần phải vận dụng phối hợp phương pháp này với các phương pháp khác để có giờ dạy hoàn chỉnh.
Khi vận dụng phương pháp GV phải có vốn hiểu biết xã hội sâu rộng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm vững vàng để dẫn dắt, gợi dẫn cho HS tiếp nhận tri thức, giúp HS có hứng thú tìm hiểu những vấn đề trong tác phẩm văn học và xã hội quanh mình. Từ đó một cách tự nhiên giờ văn sẽ nâng cao được nhận thức, giáo dục ý thức, định hướng hành vi cho các em. Việc liên hệ với thực tế đời sống xã hội bên ngoài, tìm hiểu suy nghĩ, tâm tư học sinh không được làm mờ mà ngược lại phải làm sáng tỏ hơn nữa hệ thống tri thức cần đạt khi dạy văn bản vì vậy giáo viên cần tinh tường khi chọn lựa chi tiết để liên hệ, tránh hiện tượng lan man, không trọng tâm.
Thông tin bảo mật.
Sáng kiến được xây dựng nhằm hướng tới tất cả các giáo viên và học sinh thi học sinh giỏi, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, đạt được kết quả cao trong các kì thi chọn học sinh giỏi. Do vậy, không có bất kì thông tin nào cần bảo mật.
Điều kiện để nhân rộng sáng kiến:
Về nhân lực:
✓ Giáo viên:
Yêu cầu chung nhất đối với mọi người giáo viên đó là kiến thức chuyên môn: môn học giảng dạy, phương pháp dạy học; thái độ kiên trì, yêu nghề, sống với nghề mình đã chọn. Riêng đối với môn Ngữ văn, người giáo viên cần có thêm những yêu cầu sau:
Tìm hiểu, vận dụng nhiều phương pháp mới để làm sinh động tiết dạy, tránh gây nhàm chán, áp lực cho học sinh trong giờ học Ngữ văn. Tạo môi trường thân thiện, năng động để học sinh tích cực nhằm khai thác, phát huy khả năng vốn có của học sinh. Tạo tính thời sự cho bài học chính là một trong những sự lựa chọn cần thiết. Người giáo viên Ngữ văn phải biết “làm mới” mình bằng việc thu nhận, học tập những kiến thức mới về chuyên môn và đời sống, nhất là kiến thức về cuộc sống muôn màu xung quanh để có nhiều liên hệ chính xác, dẫn chứng hợp lí cho tiết dạy.
Công việc trong biện pháp tạo tính thời sự dạy Ngữ văn cũng đòi hỏi người giáo viên ở nhiều khía cạnh khi tiến hành liên hệ thực tế trong giảng dạy:
Kiến thức liên hệ phải phù hợp, mang tính chân thực lịch sử cao.
Dẫn chứng phải tinh tế, có tính phổ biến.
Dẫn chứng đúng lúc, đúng chỗ, hướng đến cho học sinh nhận thức được bài học một cách tự nhiên, đúng đắn.
Dẫn chứng phải được dẫn dắt sinh động bằng nhiều hình thức, tránh thông báo, diễn giảng khô khan, lí thuyết.
- Giáo viên dẫn chứng nhưng cần chú ý khơi gợi, phát huy tri thức cho học sinh.
- Thái độ liên hệ của giáo viên phải hăng say để truyền đam mê, hứng thú cho học sinh.
✓ Học sinh:
Học sinh là trung tâm của giờ học nên vấn đề thời sự có được liên hệ hay không phụ thuộc nhiều vào đối tượng học sinh. Để tạo được tính thời sự trong dạy Ngữ văn lớp 11 phần đọc hiểu văn bản đòi hỏi ở học sinh những yêu cầu sau đây:
Kiến thức học sinh phải được trang bị, cả kiến thức về Ngữ văn và kiến thức về đời sống. Kiến thức về Ngữ văn là những kiến thức về tác phẩm văn chương, tiếng Việt, làm văn, lịch sử, địa lí hay những lĩnh vực có liên quan chặt chẽ đến bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11. Kiến thức về đời sống đó là những kiến thức các em học được trong cuộc sống thông qua các mối quan hệ: nhà trường, gia đình và xã hội. Ví dụ, khi học tác phẩm “Cha con nghĩa nặng” theo tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, học sinh phải có những kiến thức về ngôn ngữ, về con người Nam Bộ, về tình cảm cha con trong văn học giai đoạn trước, tình cảm cha con của gia đình mình và tình cảm cha con trong xã hội ngày nay qua những tin tức báo đài, truyền hình đang nóng hổi. Để từ đó, học sinh có cái nhìn xuyên suốt và thông hiểu được bài học cũng như nhận thấy được tính thiết thực, ý nghĩa của bài học trong cuộ c sống.
Tâm lí của học sinh cũng rất quan trọng, cùng là bậc Phổ thông nhưng tâm lí của học sinh lớp 10, 11, 12 đều khác nhau. Ở lớp 10, học sinh bước vào cấp 3, các em đã có ý nghĩ mình trưởng thành, người lớn hơn, các em được làm quen với môi trường mới: trường lớp, học tập, bạn bè, thầy cô. Ở lớp 12, các em đã phải có ý thức cao về trách nhiệm học tập đối với bản thân, gia đình, suy nghĩ của học sinh 12 phần nào chín chắn hơn và biết tiết kiệm quỹ thời gian của mình vào học tập, hướng nghiệp. Lớp 11 là năm học trung gian của hai khối lớp trên, lớp 11, các em đang đà phát triển, năng động, ham học hỏi, thích khám phá và có nhiều thời gian tìm hiểu về thế giới xung quanh. Chỉ khi các em thích cái mới, chủ động, tìm tòi thì các em có thể nắm bắt được nhiều thông tin, kiến thức, hỗ trợ phần nào cho các vấn đề thời sự được liên hệ.
Thái độ của học sinh cũng là một yêu cầu khá quan trọng trong việc dạy học Ngữ văn. Đối với một học sinh chán ghét môn Ngữ văn thì việc tiếp thu kiến thức rất khó khăn, tuy vậy, yêu cầu này không bắt buộc học sinh phải yêu thích, đam mê, hăng say với Ngữ văn. Học sinh chỉ cần bình đẳng môn học Ngữ văn với các môn học khác, có hứng thú với các vấn đề thực tế được liên hệ và biết nhìn nhận, đánh giá các vấn đề thực tế ấy theo quan điểm tích cực của cá nhân. Thái độ hợp tác của học sinh chính là một chất xúc tác cho kết quả thành công của việc nhìn nhận tính thời sự trong dạy học Ngữ văn.
✓ Cha mẹ học sinh:
Phụ huynh học sinh cần có thái độ hợp tác chặt chẽ, thiện chí với nhà trường và giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn ở lớp con mình. Thường xuyên nắm bắt tình hình học tập của các em để nhắc nhở, động viên, khuyến khích các em cố gắng học tập đạt mục đích cao hơn trong kiểm tra, thi cử. Đồng thời cha mẹ cũng cần tạo điều kiện về thời gian và vật chất cho các em tham gia các hoạt động dã ngoại, các hoạt động xã hội, đoàn thể địa phương để các em quan sát thực tế cuộc sống nhiều hơn, hiểu biết các vấn đề xã hội, nắm bắt tin tức thời sự rộng mở hơn.
về trang thiết bị:
Không chỉ thuyết phục học sinh bằng lí thuyết mà cần tạo điều kiện để học sinh được nghe nhìn. Phòng nghe nhìn của nhà trường sẽ giúp học sinh có cái nhìn thực tế vấn đề về các hiện tượng xã hội cần quan tâm. Khi được “Đích mục sở thị”, các em sẽ ấn tượng hơn với vấn đề được gieo ra và có thêm tri thức thực tế cho bài học. Đồng thời phòng thư viện nhà trường cũng cần trang bị nhiều loại sách, tài liệu tham khảo của bộ môn Ngữ văn để các em được đọc nhiều hơn, tích lũy tri thức nhiều hơn.
Kết quả đạt được khi áp dụng sáng kiến
Sau quá trình thực hiện các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả đạt được cụ thể là:
Đối với môn học:
Nếu như một giờ học phần đọc hiểu văn bản, giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp nhận đầy đủ tri thức về nội dung và nghệ thuật của văn bản đã là một việc rất khó. Việc làm thế nào để các em không thấy môn Ngữ văn là trống rỗng, là xa vời, là “dài dòng văn tự” - như nhiều em thường áp đặt - quả là điều không dễ trong hoàn cảnh hiện tại. Song với việc tạo tính thời sự cho mỗi bài học tôi dần nhận thấy sự khả quan trong thay đổi nhận thức, suy nghĩ đến tình cảm của học sinh khi đến với giờ học Ngữ văn. Bước đầu học sinh sẽ nhận thấy văn học và đời sống có mối liên hệ mật thiết, văn là đời, trang văn và trang đời gần gũi với nhau. Học sinh đọc văn bản để hiểu về xã hội đương thời và có cái nhìn xa hơn trong mối liên hệ với thực tại. Đồng thời học sinh cũng dần nhìn thấy cách giải quyết những vấn đề đặt ra trong các văn bản văn học của nhà văn thông qua hệ thống nhân vật. Để từ đó học sinh vận dụng linh hoạt trong giải quyết các vấn đề thời sự đặt ra trong cuộc sống hiện tại. Và khi được thâm nhập vào tác phẩm, các em sẽ thấy hứng thú với việc học môn Ngữ văn hơn. Giờ học trở nên hào hứng, các em tích cực đón nhận tri thức từ tác phẩm mang đến, nhập tâm hơn với bài học và có phần sôi nổi khi được nêu lên các vấn đề thời sự từ bài học cũng như cung cấp cái nhìn thực tế về vấn đề mà các em quán sát được trong hiện tại. Ý nghĩa, giá trị bài học được khắc sâu và tính vận dụng vào thực tiễn có hiệu quả. Đó là kết quả mong muốn nhất mà mỗi giáo viên dạy môn Ngữ văn đều cần làm được.
Đối với việc giáo dục tâm hồn, tính cách và nhận thức xã hội của học sinh:
Từ sự thay đổi trong nhận thức với môn học, học sinh có sự thay đổi trong tâm hồn, tính cách và nhận thức xã hội. “Văn học là nhân học” chính vì vậy khi thích thú với môn Ngữ văn học sinh sẽ được bồi đắp về tâm hồn, nhân cách. Mỗi văn bản văn học giàu giá trị sẽ mang đến cho học sinh những bài học vô cùng bổ ích về tâm hồn, tình cảm, nhân cách. Theo đó, học sinh nhận thấy lòng yêu nước, những tình cảm nhân văn, lối ứng xử hợp với đạo đức, chuẩn mực xã hội. Không chỉ vậy, những vấn đề thời sự được đặt ra trong tác phẩm sẽ tác động tới cái nhìn của học sinh với thực tiễn của các em. Cái nhìn vấn đề vừa bao quát vừa cụ thể tinh tế của mỗi nhà văn trong tác phẩm cũng mang tới cho học sinh cách quan sát cuộc sống và nhận thức xã hội tốt hơn. Sự tác động đa chiều từ văn học đến nhận thức của học sinh và từ học sinh đến cuộc sống có ý giáo dục rất lớn và mang lại hiệu quả thực sự. Bởi mỗi con người sống đâu chỉ bằng thể xác mà tâm hồn cũng là phần cao quý cần được chăm chút, bồi đắp. Hứng thú với việc học văn chương đã phần nào giúp các em có được tâm hồn tốt đẹp, trong sáng, nhân văn và giàu trách nhiệm hơn với chính mình với mọi người và xã hội.
Kết quả khảo sát cụ thể:
Tại lớp 10B (năm học 2018-2019) - chưa áp dụng đề tài và lớp 11B (năm học 2019-2020, lớp 10B năm học trước) - áp dụng đề tài, về:
- Sự yêu thích học Ngữ văn (phần đọc hiểu văn bản văn học) của học sinh:
Kết quả
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích
Lớp 10B (2018-2019)
2,5%
10,0%
37,5%
47,5%
Lớp 11B (2019-2020)
17,5%
50,0%
32,5%
0,0%

- Chất lượng bài kiểm tra Ngữ văn (nghị luận văn học):
Chất lượng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp 10B (2018-2019)
7,5%
17,5%
65,0%
10,0%
Lớp 11B (2019-2020)
25,0%
55,0%
25,0%
0,0%

Tại lớp 11A (năm học 2018-2019) - không áp dụng đề tài và 12A (năm học 2019-2020, lớp 11A năm học trước) - áp dụng đề tài, về:
- Sự yêu thích học Ngữ văn (phần đọc hiểu văn bản văn học) của học sinh:
Kết quả
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích
Lớp 11A (2018-2019)
0,0%
4,8%
19,1%
76,1%
Lớp 12A (2019-2020)
4,8%
35,7%
59,5%
0,0%

- Chất lượng bài kiểm tra Ngữ văn (nghị luận văn học):
Chất lượng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp 11A (2018-2019)
0,0%
7,1%
21,4%
71,5%
Lớp 12A (2019-2020)
7,1%
35,7%
57,2%
0,0%

Giáo dục học sinh yêu văn, có hứng thú học văn và nhất là làm bài văn nghị luận không phải là công việc đơn giản trong một sớm, một chiều mà là cả một quá trình; nhất là với đối tượng học sinh có năng lực nhận thức thấp, vốn lười học và làm bài, đặc biệt là môn Ngữ văn. Nhiệt huyết, tình yêu nghề, say mê chuyên môn và năng lực người giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn sẽ là động lực, là cầu nối, là sợi dây liên kết rất quan trọng làm nên lòng yêu thích, sự ham muốn, nhiệt tình học tập bộ môn này của học sinh trường tôi nói riêng và bao thế hệ học trò THPT trên khắp mọi miền đất nước ta nói chung.
Để kết quả giáo dục và học tập của giáo viên, học sinh THPT với bộ môn Ngữ văn cao hơn, giáo viên Ngữ văn cần linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp, cách thức truyền tải tri thức, kĩ năng, định hướng năng lực phát triển ở bộ môn cho phùhợp với điều kiện, năng lực, mục đích học tập của học sinh ở từng lớp, từng khối, từng nhiệm vụ cụ thể.
Số
TT
Tên cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
1
Nguyễn Thị Huyền
Trường PT DTNT cấp
2,3 Vĩnh Phúc
Áp dụng vào giảng dạy chính khóa
2
Phương Thị Hằng
Trường PT DTNT cấp
2,3 Vĩnh Phúc
Áp dụng vào giảng dạy chính khóa
Bài viết chỉ xin nêu ra một vài giải pháp tôi đã mạnh dạn áp dụng trong quá trình giảng dạy phần đọc hiểu văn bản văn học Ngữ văn 11 để cùng các đồng chí đồng nghiệp và học trò của chúng ta thấy được sức hấp dẫn của môn Ngữ văn. Từ đó, cùng yêu thích, học tập và cùng định hướng con người đến với cái chân, cái thiện, cái mĩ từ những bài học sâu sắc được đúc rút. Và cũng là một giải pháp để cùng với nhà trường và phụ huynh giáo dục học sinh toàn diện, sống có tâm hồn, tình cảm và nhận thức xã hội tốt hơn. Tất cả với mong muốn học sinh trưởng thành, có hiểu biết, biết vận dụng tri thức vào cuộc sống, dễ dàng hòa nhập với cuộc sống mọi nơi mọi lúc trước nhiều vấn đề phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống hiện nay.
Tác giả sáng kiến
Danh sách tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến lần đầu
Phúc Yên, ngày ... tháng 02 năm 2021
Xác nhận của đơn vị
Phúc Yên, ngày 20 tháng 02 năm 2021
Phó hiệu trưởng
Nguyễn Minh Đăng
Nguyễn Thị Huyền

File đính kèm:

  • docxskkn_tao_tinh_thoi_su_trong_day_hoc_mon_ngu_van_lop_11_trung.docx
  • pdfSKKN Tạo tính thời sự trong dạy học môn Ngữ Văn Lớp 11 Trung học Phổ thông (Phần đọc hiểu văn bản.pdf